Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ
Ngoại ngữ có vai trò và vị trí quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục đào tạo và trong sự phát triển của
đất nước. Biết ngoại ngữ không những là yêu cầu
tất yếu của lao động có kỹ thuật cao nhằm đáp
ứng nhu cầu xã hội đang ngày càng đổi mới mà
còn là một năng lực cần thiết đối với người Việt
Nam hiện đại.
Đánh giá 59 trường đại học lớn không chuyên
ngữ tại Việt Nam, có khoảng 51,7% sinh viên tốt
nghiệp không đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng
tiếng Anh. Trong số các trường được khảo sát,
chỉ có 10,5% số trường đại học đã thực hiện khảo
sát đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu công việc
về kỹ năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên tốt
nghiệp. Kết quả cho thấy khoảng 49,3% sinh viên
đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, 18,9%
sinh viên không đáp ứng được và 31,8% sinh viên
cần đào tạo thêm [4]. Tiếng Anh đang là mối quan
tâm hàng đầu của các doanh nghiệp khi phỏng vấn
tuyển dụng. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây,
báo chí thường đưa tin về phản hồi của các nhà
tuyển dụng là trên 50% sinh viên tốt nghiệp không
đáp ứng được yêu cầu về ngoại ngữ. Các sinh
viên khối không chuyên ngữ học tiếng Anh nhưng
khả năng sử dụng tiếng Anh trong các tình huống
thực tế rất hạn chế và có thể nói rằng phần lớn
không sử dụng được. Như vậy, tình hình chung
là khả năng sử dụng được tiếng Anh trong môi
trường làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp
đại học là rất hạn chế và không đáp ứng được yêu
cầu của đại đa số các đơn vị sử dụng lao động và
sinh viên yếu nhất là kỹ năng nói [4, 5].
LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 105 Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ The situation and solutions to improve English training quality at Sao Do University Phạm Thị Huyền Trang, Đặng Thị Minh Phương Email: trang.phamhuyen88@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 10/12/2017 Ngày nhận bài sau phản biện: 26/9/2018 Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018 Tóm tắt Bài báo nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng đào tạo tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ. Các phương pháp quan sát, câu hỏi khảo sát, phỏng vấn được sử dụng cho đối tượng là sinh viên đang học tập tại trường. Kết quả chỉ ra các mặt tích cực và hạn chế trong quá trình đào tạo tiếng Anh. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh ở Trường Đại học Sao Đỏ, đáp ứng nhu cầu xã hội. Từ khóa: Chất lượng đào tạo; đào tạo theo tín chỉ. Abstract The current article aims at analyzing and evaluating the situation of English education at Sao Do University. The methods of observation, questionnaire and interviews were used with the participants (students at Sao Do University). Findings showed both the strength and weakness of English training process. Besides, the author proposed some suggestions in order to improve the English training quality at Sao Do University with the purpose of fulfilling the social need. Keywords: Training quality; credit-based training system. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngoại ngữ có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục đào tạo và trong sự phát triển của đất nước. Biết ngoại ngữ không những là yêu cầu tất yếu của lao động có kỹ thuật cao nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội đang ngày càng đổi mới mà còn là một năng lực cần thiết đối với người Việt Nam hiện đại. Đánh giá 59 trường đại học lớn không chuyên ngữ tại Việt Nam, có khoảng 51,7% sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng tiếng Anh. Trong số các trường được khảo sát, chỉ có 10,5% số trường đại học đã thực hiện khảo sát đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu công việc về kỹ năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên tốt nghiệp. Kết quả cho thấy khoảng 49,3% sinh viên đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, 18,9% sinh viên không đáp ứng được và 31,8% sinh viên cần đào tạo thêm [4]. Tiếng Anh đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp khi phỏng vấn tuyển dụng. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, báo chí thường đưa tin về phản hồi của các nhà tuyển dụng là trên 50% sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng được yêu cầu về ngoại ngữ. Các sinh viên khối không chuyên ngữ học tiếng Anh nhưng khả năng sử dụng tiếng Anh trong các tình huống thực tế rất hạn chế và có thể nói rằng phần lớn không sử dụng được. Như vậy, tình hình chung là khả năng sử dụng được tiếng Anh trong môi trường làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học là rất hạn chế và không đáp ứng được yêu cầu của đại đa số các đơn vị sử dụng lao động và sinh viên yếu nhất là kỹ năng nói [4, 5]. Qua đó, trình độ tiếng Anh được xem xét là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá nhân viên tại các doanh nghiệp, không chỉ là các công ty nước ngoài mà còn đối với nhiều đơn vị trong nước. Đào tạo ngoại ngữ là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự kết hợp của nhiều nhân tố quan trọng. Trong phạm vi bài báo, tác giả phân tích và đánh giá về thực trạng đào tạo tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh tại trường, đáp ứng nhu cầu xã hội. Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Văn Độ 2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên 106 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO TIẾNG ANH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SAO ĐỎ 2.1. Khái quát việc tổ chức giảng dạy tiếng Anh Trong thực tế, tiếng Anh là môn học bắt buộc được áp dụng cho tất cả sinh viên trong trường. Theo đó, sinh viên không chuyên ngữ học 3 học phần tiếng Anh (tiếng Anh cơ bản 1-TACB1, tiếng Anh cơ bản 2-TACB2, tiếng Anh chuyên ngành) tương đương 10 tín chỉ (150 tiết). Ngoài ra, với chương trình mới (hiệu chỉnh năm 2018) áp dụng từ năm học 2018-2019 cho đại học khóa 9, sinh viên được học thêm 1 học phần tiếng Anh luyện kỹ năng theo định dạng đề thi TOEIC nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra đại học. Nhà trường giao nhiệm vụ cho bộ môn Ngoại ngữ biên soạn giáo trình, đề cương chi tiết, đề cương bài giảng phục vụ giảng dạy cho đối tượng là sinh viên toàn trường (thuộc các ngành nghề khác nhau). Mục tiêu môn học nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng giao tiếp cơ bản bằng tiếng Anh trong cuộc sống cũng như trong công việc chuyên môn. Như vậy, giảng viên tiếng Anh phải chuẩn bị, thiết kế bài giảng cho phù hợp với từng nhóm đối tượng khác nhau về chuyên ngành, về trình độ tiếng Anh, về giới tính Do đó, việc quản lý chất lượng giảng dạy và học tập môn tiếng Anh gặp không ít khó khăn. Về cơ sở vật chất, Nhà trường đã trang bị 2 phòng thực hành ngoại ngữ với 56 máy tính kết nối Internet, 2 máy chiếu đa năng và các thiết bị đa phương tiện khác. Nhờ đó, giảng viên và sinh viên có thể thực hiện được những giờ học ngoại ngữ sinh động, hiệu quả đáp ứng mục tiêu bài giảng. Với chủ trương xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Anh rộng rãi, Nhà trường luôn hỗ trợ, ủng hộ các hoạt động học tập, sinh hoạt chuyên môn nâng cao năng lực ngoại ngữ; khuyến khích các phong trào thi đua, tổ chức lớp học ngoài giờ, câu lạc bộ tiếng Anh Như vậy, việc tổ chức giảng dạy môn tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ đang được thực hiện một cách bài bản, khoa học, tuân thủ đúng chương trình khung. Nội dung đủ các yếu tố thực hành kỹ năng giao tiếp và kiến thức chuyên ngành. Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập phù hợp, tuy nhiên, cần được nâng cấp, cập nhật thường xuyên để đáp ứng hiệu quả nhu cầu khai thác sử dụng, giúp nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh. 2.2. Thái độ, ý thức học tập của sinh viên đối với môn tiếng Anh Thái độ là sự đánh giá tích cực hay tiêu cực đối với một đối tượng, con người hay một tình huống cụ thể mà chúng ta cảm nhận được và có hành vi đối với chúng theo cách tích cực hoặc tiêu cực tương ứng (Ajzen and Fishbein, 1980) [1]. Thái độ học tập của người học dựa vào khả năng tự học và sự sẵn sàng cho việc học. Thái độ học tập là những biểu hiện ra bên ngoài bằng những hoạt động tích cực, hoặc tiêu cực đối với các môn học. Tính tích cực, tự giác, niềm say mê trong học tập, nghiên cứu là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học [3]. Bài báo phân tích góc nhìn của sinh viên đối với môn tiếng Anh thông qua câu hỏi khảo sát đánh giá được thực hiện đối với nhóm 150 sinh viên đại học chính quy (không bao gồm lớp ngôn ngữ Anh). Nhóm sinh viên này được chọn mẫu ngẫu nhiên trong số các lớp đã hoàn thành 3 học phần tiếng Anh bắt buộc, với điều kiện đảm bảo tất cả các khoa trong trường đều có sinh viên tham gia. Hình thức thông qua bảng câu hỏi gồm 6 câu về thực trạng quá trình dạy và học tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ. Kết quả thu nhận được thể hiện như sau: Bảng 1. Cảm nhận của sinh viên về các kỹ năng tiếng Anh Kỹ năng Rất thích Thích Bình thường Không thích SL % SL % SL % SL % Nghe 22 14,7 36 24,0 72 48,0 20 13,3 Nói 38 25,3 68 45,3 25 17,0 19 12,4 Đọc 15 10,0 56 37,3 52 34,7 27 18,0 Viết 0 0,0 9 6,0 89 59,3 52 34,7 Bảng 2. Kết quả sinh viên tự đánh giá về khả năng của bản thân trong các kỹ năng tiếng Anh Kỹ năng Giỏi Khá Trung bình Yếu/kém SL % SL % SL % SL % Nghe 0 0,0 32 21,3 34 22,7 84 56,0 Nói 8 5,0 15 10,0 34 22,7 93 62,3 Đọc 20 13,3 27 18,1 47 31,3 56 37,3 Viết 0 0,0 18 12,3 38 25,3 94 62,4 Qua kết quả khảo sát, đa số sinh viên đã thể hiện niềm yêu thích, nguyện vọng học ngoại ngữ và LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 107 mong muốn đạt được năng lực ngoại ngữ ở trình độ giao tiếp cơ bản, phục vụ công việc tương lai của họ. Hai kỹ năng được lựa chọn yêu thích nhiều hơn là nghe (38,7%) và nói (70,6%) nhưng đây cũng chính là những nội dung mà sinh viên tự đánh giá là khả năng của họ còn yếu, hoặc chỉ ở mức trung bình: nghe (56% yếu/kém), nói (62,3%), thậm chí, kỹ năng viết của sinh viên được đánh giá thấp nhất (62,4%). 2.3. Phương pháp giảng dạy của giảng viên tiếng Anh Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng giảng viên là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình học tập của sinh viên. Đối với khoa Du lịch và Ngoại ngữ, Trường Đại học Sao Đỏ, đội ngũ giảng viên đều là các thầy cô được đào tạo sư phạm ngoại ngữ chính quy, 100% đạt trình độ sau đại học và có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy. Đó là lý do vì sao 88% sinh viên lựa chọn nguồn học tập giúp họ cải thiện tiếng Anh hiệu quả là giảng viên (theo kết quả bảng hỏi khảo sát). Qua các giờ học trên lớp, với thời lượng chương trình hiện tại, sinh viên hoàn toàn có thể đánh giá được về năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm và tác phong, thái độ của giảng viên. Do đó, kết quả khảo sát tương đối sát thực. Theo kết quả phiếu thăm dò mức độ hài lòng của sinh viên (2017-2018), hầu hết sinh viên đều thể hiện sự hài lòng ở mức cao (hơn 2/3 chấm điểm 4÷5/5) qua các tiêu chí đánh giá giảng viên, môn học. Qua khảo sát, về năng lực chuyên môn, 74% sinh viên đồng ý rằng các giảng viên đã thực hiện nội dung bài giảng đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Từ 90÷100% sinh viên xác nhận giáo viên đã sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy trên lớp (phương pháp thảo luận nhóm, hỏi đáp, minh họa). Hơn nữa, 94% sinh viên đánh giá giáo viên có tác phong sư phạm chuẩn mực, gần gũi, ân cần với sinh viên. Để bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng xu thế đổi mới trong giảng dạy ngoại ngữ, bộ môn đã thường xuyên tổ chức các buổi seminar nhằm thảo luận, trao đổi về chuyên môn, phương pháp giảng dạy. Mỗi năm, bộ môn cử giảng viên tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy, kỹ năng mềm, áp dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy ngoại ngữ. Sau các khóa tập huấn, bộ môn tổ chức sinh hoạt học thuật để cùng chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp mới. Giảng viên luôn chủ động, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhiệt tình, tâm huyết, tạo động lực cho sinh viên. Bên cạnh những bài tập trong giáo trình, thầy cô luôn lồng ghép các kiến thức thực tế liên quan đến đất nước, văn hóa, con người bản địa thông qua hình ảnh, câu chuyện, trò chơi, bài hát giúp sinh viên dễ dàng tiếp thu kiến thức. Với đặc thù của Nhà trường đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực, các giảng viên ngoại ngữ cũng không ngừng tìm tòi, học hỏi để thiết kế các bài giảng phù hợp với nhiều đối tượng sinh viên khác nhau. Nhìn chung, nhân tố giảng viên là một trong những nhân tố thuận lợi, có ảnh hưởng tốt đến chất lượng dạy và học ngoại ngữ của sinh viên trong trường. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác tiềm năng lợi thế này và kết hợp với các yếu tố quan trọng khác nhằm đạt được kết quả đào tạo cuối cùng là năng lực ngoại ngữ của sinh viên đáp ứng nhu cầu xã hội. 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO TIẾNG ANH 3.1. Ưu điểm Việc tổ chức đào tạo tiếng Anh tại Trường Đại học Sao Đỏ là một trong những điểm mạnh cần phát huy. Với mục tiêu nêu cao chất lượng, sinh viên ra trường đáp ứng nhu cầu công việc, sử dụng được tiếng Anh để giao tiếp và lao động, những phương pháp đang được thực hiện đã thể hiện nhiều mặt tích cực. Thứ nhất, bộ môn đã lựa chọn giáo trình giao tiếp tiếng Anh gốc do các nhà xuất bản Anh, Mỹ biên soạn, phù hợp với đối tượng người học là người nước ngoài (non-native speakers: không phải người bản ngữ). Thứ hai, đội ngũ giảng viên có chuyên môn, phương pháp và nhiệt tình, tâm huyết luôn tìm tòi cải thiện, nâng cao chất lượng bài giảng. Ngoài ra, tính tích cực của sinh viên cũng là một ưu điểm trong quá trình đào tạo tiếng Anh. Tuy năng lực tiếng Anh chưa tốt nhưng đa số sinh viên đã thể hiện thái độ cầu thị, ham học hỏi, mong muốn nâng cao trình độ (theo kết quả khảo sát, có hơn 30% sinh viên cho biết có đi học thêm tiếng Anh tại các trung tâm.) Bên cạnh đó, quá trình thanh tra, khảo thí đối với môn tiếng Anh tại trường đang được thực hiện tương đối tốt. Hệ thống ngân hàng đề thi đa dạng, cập nhật và được quản lý chặt chẽ, các trang thiết bị (phòng máy tính để thi trắc nghiệm) đáp ứng phục vụ có hiệu quả trong các đợt thi. 108 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 3.2. Hạn chế Thực tế, năng lực tiếng Anh của sinh viên là hạn chế lớn nhất của quá trình đào tạo. Kết quả sinh viên thi sát hạch chuẩn đầu ra trong 2 năm áp dụng đã cho thấy thực trạng này. Tỉ lệ sinh viên không đạt sau 2 lần thi khá cao (12,4÷19,7%). Tuy tỉ lệ sinh viên không đạt ở khóa 5 đã giảm so với khóa 4 nhưng so với mục tiêu đặt ra (3÷5%) thì còn tương đối cao. Thậm chí, một số sinh viên tham gia thi 4÷5 lần chưa đạt. Bảng 3. Kết quả thi sát hạch tiếng Anh sau 2 lần thi của sinh viên đại học khóa 4, 5 Khóa Số SV Đạt Tỉ lệ (%) Không đạt Tỉ lệ (%) 4 1130 907 80,3 223 19,7 5 944 827 87,6 117 12,4 Qua khảo sát, sinh viên xác định lý do khiến họ không thể đạt được mục tiêu học tập xuất phát từ nhiều yếu tố như hạn chế trong phát âm, khó khăn trong việc tiếp thu bài học trên lớp (nội dung khó hiểu, phương pháp của giảng viên không phù hợp với tất cả đối tượng). Đa số sinh viên thể hiện đã có nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của tiếng Anh và đã đánh giá được những khó khăn của bản thân là thiếu kiến thức và kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh. Khi nói tiếng Anh trôi chảy mà không hiểu biết các kiến thức xã hội liên quan thì sinh viên cũng sẽ gặp khó khăn để diễn đạt bản thân. Ngược lại, nếu có kiến thức tốt mà không diễn đạt được qua ngôn ngữ thì các em cũng không thể giao tiếp. Do đó, kiến thức và kỹ năng luôn phải đi song song với nhau. 3.3. Nguyên nhân của thực trạng 3.3.1. Về chương trình đào tạo Thứ nhất, chương trình học xuyên suốt bậc trung học có xu hướng nặng về ngữ pháp. Trong khi việc luyện kỹ năng giao tiếp, khả năng phản xạ chưa thực sự được chú trọng. Dường như chúng ta đang đi ngược với tự nhiên khi hướng theo “biết đọc, biết viết trước khi biết nói.” Đa số sinh viên khá giỏi chỉ làm được bài tập ngữ pháp mà không thể biến chúng chúng thành công cụ giao tiếp. Thông thường, sinh viên chỉ thực sự tiếp cận cách học giao tiếp tiếng Anh khi vào đại học. Theo chương trình học tại Trường Đại học Sao Đỏ, sinh viên phải trải qua 3 học phần tiếng Anh, tương đương 10 tín chỉ (150 tiết), thêm 30 tiết ôn thi sát hạch chuẩn đầu ra tiếng Anh, mỗi tiết học dài 50 phút. Như vậy trong khóa học 4 năm, sinh viên chỉ có 150 giờ tiếng Anh. “Theo số liệu khảo sát (năm 2008) của tuoitre.vn tại 18 trường đại học Việt Nam, “Điểm bình quân sinh viên năm nhất dao động ở mức 220÷245/990 điểm TOEIC, và với mức điểm này sinh viên cần khoảng 360 giờ đào tạo (tương đương 480 tiết) để đạt được 450÷500 điểm TOEIC - mức điểm mà rất nhiều doanh nghiệp đang coi là mức tối thiểu để họ chấp nhận hồ sơ.” [2]. Như vậy, do thời lượng học tiếng Anh tại trường còn hạn chế nên sinh viên đã tìm cách học thêm tại các trung tâm ngoại ngữ, vốn vừa tốn thời gian lại mất nhiều chi phí. Mặt khác, thời khóa biểu dành cho môn tiếng Anh trung bình mỗi tuần một buổi; mỗi buổi 2÷4 tiết; mỗi học phần cách nhau vài tháng. Thậm chí, sinh viên học tiếng Anh cơ bản từ năm thứ nhất, nhưng môn tiếng Anh chuyên ngành được xếp vào tiến độ năm thứ 3 hoặc 4. Bên cạnh đó, kỳ thi sát hạch chuẩn đầu ra được thực hiện vào năm học cuối. Đây cũng là điều mà đa số sinh viên tham gia khảo sát thể hiện quan tâm. Họ băn khoăn việc học tiếng Anh không liên tục có thể làm ảnh hưởng đến năng lực tiếng Anh và kết quả học của họ. Trong thực tế, Nhà trường đã triển khai áp dụng sát hạch trình độ ngoại ngữ nhằm đánh giá chuẩn đầu ra cho sinh viên từ đại học khóa 4. Có thể nói đây là một trong những hoạt động đào tạo có ý nghĩa sâu sắc nhằm đánh giá khách quan trình độ ngoại ngữ của sinh viên theo mục tiêu chương trình đào tạo; đồng thời, tạo điều kiện cho sinh viên ôn luyện, nâng cao trình độ, năng lực ngoại ngữ sau tốt nghiệp, đáp ứng yêu cầu thực tế của các đơn vị tuyển dụng lao động, tăng cơ hội việc làm cho sinh viên, góp phần quảng bá hình ảnh Nhà trường. Trong lần đầu áp dụng, quá trình tổ chức đã không tránh khỏi một số hạn chế như lịch học còn dồn gấp (do ảnh hưởng tiến độ học và thực tập khác nhau của các lớp), sinh viên đi học chưa đầy đủ, chưa tích cực ôn luyện (do chưa ý thức được tầm quan trọng của kỳ thi và chưa thực sự cố gắng) Tuy nhiên, từ năm học 2017-2018, phong trào học tiếng Anh trong trường đã có tín hiệu tích cực thể hiện qua ý thức học tập của sinh viên đã tốt hơn và kết quả thi sát hạch ngoại ngữ cao hơn so với khóa trước (bảng 3). 3.3.2. Về phía sinh viên Một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến việc học của sinh viên như: lớp học đông (từ 40÷45 sinh viên), tâm lý sinh viên còn ngại, còn lười nói tiếng Anh Kết quả cho thấy, sau 4 năm học đại học LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 109 (chưa kể thời gian sinh viên học thêm), sinh viên vẫn không giao tiếp được bằng tiếng Anh. Trong thực tế, giáo trình tiếng Anh hiện tại có xu hướng thiên về rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cho sinh viên (giáo trình Know how 1, 2). Tuy nhiên, cách thức đánh giá chỉ dừng lại ở kiểm tra kiến thức qua bài thi trắc nghiệm trên máy tính. Do đó, đôi khi sinh viên thấy không cần thiết phải học các kỹ năng nghe - nói mà vẫn có thể đạt điểm cao môn tiếng Anh. Dần dần, việc này dẫn đến thực trạng sinh viên học tập máy móc, thụ động, chống đối, chỉ để vượt qua kỳ thi mà không quan tâm đến việc hoàn thiện các kỹ năng giao tiếp tiếng Anh. Hơn nữa, sinh viên có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giờ học ngoại ngữ. Thói quen này hoàn toàn tự nhiên vì họ đã học tiếng Anh ở bậc trung học theo phương pháp truyền thống là ngữ pháp dịch (grammar translation). Sinh viên thường tìm ra mối liên hệ giữa tiếng Anh với những hiểu biết của họ trong tiếng Việt để dễ nhớ, dễ lĩnh hội kiến thức hơn. Hiện nay, sinh viên chỉ tiếp xúc với tiếng Anh trong giờ học mà chưa có sự đầu tư thỏa đáng cho các hoạt động khác như tự củng cố lại kiến thức, chủ động học từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau (Internet, sách, báo, truyện,). Điều này rất quan trọng vì với ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng thì việc vận dụng thực tế, thực hành thường xuyên sẽ giúp kiến thức và kỹ năng không bị “quên lãng”. 3.3.3. Về phía giảng viên Nguyên nhân thứ ba chính là ảnh hưởng, tác động của giảng viên trong mỗi giờ lên lớp. Khi gặp kiến thức mới, giảng viên thường sử dụng tiếng Việt để giải thích, hướng dẫn và đặt ra yêu cầu cho sinh viên. Như vậy khó có thể hy vọng sinh viên sẽ chủ động sử dụng tiếng Anh để giao tiếp thường xuyên trên lớp, cũng như trong thực tế. Một lý do khác có thể là nhiệm vụ, yêu cầu mà giáo viên đặt ra quá cao so với trình độ và khả năng của học viên. Giả sử như bạn yêu cầu sinh viên ở trình độ sơ cấp thảo luận một đề tài khó như toàn cầu hóa, hay sự nóng lên của Trái Đất thì sinh viên thậm chí chỉ có rất ít kiến thức về những lĩnh vực này nên họ sẽ tìm đến tiếng Việt như là lựa chọn tất nhiên. Hơn nữa, sự không đồng đều, thậm chí khác biệt lớn về năng lực sử dụng tiếng Anh giữa các sinh viên trong cùng lớp dẫn đến khó khăn cho cả giảng viên và sinh viên trong quá trình dạy và học. Thông thường, tron
File đính kèm:
- thuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_chat_luong_dao_tao_tieng_an.pdf