Phân tích nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên khoa giáo dục mầm non - Trường đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng

Bài viết giới thiệu kết quả nghiên cứu khảo sát nhu cầu học Tiếng Anh chuyên ngành của sinh

viên sư phạm mầm non tại Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Nghiên cứu khảo sát dựa trên

việc lấy ý kiến của 254 sinh viên khoa Giáo dục Mầm non tại Trường, cùng với việc mở rộng lấy ý kiến

của 24 giảng viên chuyên ngành giáo dục mầm non và sư phạm ngoại ngữ. Kết quả cho thấy phần lớn

sinh viên nhận thức rõ ý nghĩa của môn học đối với sự phát triển chuyên môn nghề nghiệp cho bản thân,

tuy nhiên nhiều sinh viên chưa có tâm thế tốt đối với việc tiếp nhận môn học này. Sinh viên có xu hướng

mong muốn chương trình môn học giúp họ phát triển năng lực học tập mang tính nghiên cứu, học thuật.

Họ cũng thích giảng viên áp dụng các biện pháp dạy học tích cực hơn là các biện pháp dạy học truyền

thống. Các kết quả nghiên cứu này giúp định hướng cho việc thiết kế và biên soạn chương trình môn

học Tiếng Anh chuyên ngành dành cho sinh viên ngành sư phạm mầm non nói chung.

pdf7 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên khoa giáo dục mầm non - Trường đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016), 69-75 | 69 
* Liên hệ tác giả 
Đinh Thị Đoan Hương 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng 
Email: dtdhuong@ued.udn.vn 
Nhận bài: 
 17 – 09 – 2016 
Chấp nhận đăng: 
 17 – 12 – 2016 
PHÂN TÍCH NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH CỦA SINH VIÊN 
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
Đinh Thị Đoan Hương 
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu kết quả nghiên cứu khảo sát nhu cầu học Tiếng Anh chuyên ngành của sinh 
viên sư phạm mầm non tại Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Nghiên cứu khảo sát dựa trên 
việc lấy ý kiến của 254 sinh viên khoa Giáo dục Mầm non tại Trường, cùng với việc mở rộng lấy ý kiến 
của 24 giảng viên chuyên ngành giáo dục mầm non và sư phạm ngoại ngữ. Kết quả cho thấy phần lớn 
sinh viên nhận thức rõ ý nghĩa của môn học đối với sự phát triển chuyên môn nghề nghiệp cho bản thân, 
tuy nhiên nhiều sinh viên chưa có tâm thế tốt đối với việc tiếp nhận môn học này. Sinh viên có xu hướng 
mong muốn chương trình môn học giúp họ phát triển năng lực học tập mang tính nghiên cứu, học thuật. 
Họ cũng thích giảng viên áp dụng các biện pháp dạy học tích cực hơn là các biện pháp dạy học truyền 
thống. Các kết quả nghiên cứu này giúp định hướng cho việc thiết kế và biên soạn chương trình môn 
học Tiếng Anh chuyên ngành dành cho sinh viên ngành sư phạm mầm non nói chung. 
Từ khóa: Tiếng Anh chuyên ngành; giáo dục mầm non; phân tích nhu cầu; thiết kế chương trình; phát 
triển chương trình. 
1. Giới thiệu 
Tiếng Anh chuyên ngành (TACN) Giáo dục Mầm 
non (GDMN) là một bộ môn mới được đưa vào chương 
trình đào tạo cử nhân sư phạm ngành GDMN tại Trường 
Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Tuy môn học này 
đã và đang được giảng dạy tại một vài cơ sở đào tạo đại 
học trong nước, vấn đề xây dựng và phát triển chương 
trình cũng như hệ thống giáo trình, sách tham khảo cho 
môn học này vẫn chưa được quan tâm xúc tiến một cách 
hoàn thiện và dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. 
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc xây dựng và 
phát triển chương trình TACN cần phải qua các giai 
đoạn nhất định, trong đó phân tích nhu cầu người học là 
một trong những khâu then chốt và là yếu tố đầu tiên 
định hướng cho việc xây dựng và phát triển chương 
trình. Xét ở góc độ ấy, có thể thấy các chương trình 
TACN GDMN hiện nay được xây dựng và thiết kế chủ 
yếu dựa vào kinh nghiệm giảng dạy mang tính cảm tính 
chủ quan của các giảng viên. Nói khác hơn, sự thiếu 
vắng khâu phân tích nhu cầu trong xây dựng và phát 
triển chương trình TACN GDMN hiện nay là một tồn 
tại cần sớm được đặt ra và giải quyết. Đó sẽ là cơ sở 
thực tiễn cho việc xây dựng và phát triển chương trình 
môn học này nhằm đáp ứng hiệu quả mục tiêu đào tạo 
phù hợp với chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo sinh 
viên chuyên ngành GDMN. 
2. Nội dung 
2.1. Khái niệm “Phân tích nhu cầu” 
Hiểu theo nghĩa rộng, nhu cầu là những mong 
muốn, nguyện vọng về vật chất và tinh thần của con 
người cần được đáp ứng để họ có thể tồn tại và phát 
triển [5]. Trong phạm vi lĩnh vực dạy học TACN, có 
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm nhu cầu [4]. 
Cụ thể, dưới góc độ xã hội học, nhu cầu được hiểu là 
những gì người học có thể làm được sau khóa học để 
đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp, hay là những gì 
xã hội mong muốn người học có khả năng làm được 
sau khóa học. Dưới góc độ ngôn ngữ học, nhu cầu 
được xem là những gì người học cần phải vượt qua 
Đinh Thị Đoan Hương 
70 
để lĩnh hội được ngôn ngữ thuộc chuyên ngành. Dưới 
góc độ tâm lý - giáo dục học, nhu cầu là những gì mà 
người học mong muốn đạt được sau khóa học [4]. 
Trong nghiên cứu này, khái niệm nhu cầu được hiểu 
là những gì mà sinh viên mong đợi sau khi kết thúc 
khóa học. 
Trong giáo dục nói chung, phân tích nhu cầu là 
quá trình xem xét và xếp thứ tự ưu tiên những nguyện 
vọng liên quan đến việc dạy và học một chương trình 
môn học hoặc thực thi một chương trình đào tạo [3]. 
Đối với lĩnh vực dạy học TACN thì phân tích nhu cầu 
là bước khảo sát ban đầu nhằm xác định những yếu tố 
liên quan đến quá trình dạy học môn học, hướng tới 
việc hình thành và bồi dưỡng người học năng lực sử 
dụng ngôn ngữ chuyên ngành để giải quyết những vấn 
đề cụ thể trong chuyên ngành [1][2]. Trong số nhiều 
cách tiếp cận để thực hiện khâu phân tích nhu cầu, 
nghiên cứu khảo sát này được tiến hành dựa trên tiếp 
cận nhu cầu của người học là các sinh viên sư phạm 
mầm non. 
2.2. Đối tượng, nội dung, phương pháp khảo 
sát và xử lý số liệu 
2.2.1. Đối tượng khảo sát 
Khảo sát được tiến hành dựa trên việc lấy ý kiến 
của 254 sinh viên năm thứ hai đang theo học tại Khoa 
GDMN, thuộc Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà 
Nẵng tính đến thời điểm khảo sát. 
Ngoài ra, để đối sánh giữa nhu cầu học của sinh 
viên với quan điểm dạy học TACN từ góc nhìn của các 
giảng viên, khảo sát này còn mở rộng thu thập ý kiến 
của 24 giảng viên chuyên ngành GDMN và sư phạm 
ngoại ngữ. Số này bao gồm: 15 giảng viên chuyên 
ngành GDMN và 9 giảng viên sư phạm ngoại ngữ từ 
các Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Ngoại 
ngữ thuộc Đại học Đà Nẵng, Đại học Sư phạm Hà Nội, 
và Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
2.2.2. Nội dung khảo sát 
Khảo sát tập trung tìm hiểu nhu cầu của sinh viên 
về việc học TACN GDMN. Nội dung khảo sát liên quan 
đến các vấn đề như: tâm thế học tập của sinh viên đối 
với môn học này; mục tiêu mà sinh viên mong muốn đạt 
được sau khi học môn học này; các chủ đề mà sinh viên 
yêu thích; các kỹ năng trọng tâm mà sinh viên mong 
muốn được bồi dưỡng và rèn luyện trong quá trình học 
môn học này; các hình thức và biện pháp phù hợp để có 
thể dạy môn học này một cách hiệu quả. 
2.2.3. Phương pháp khảo sát và xử lý số liệu 
Để thu thập ý kiến của sinh viên, chúng tôi dùng 
phương pháp điều tra bằng phiếu lấy ý kiến, được phát 
và thu hồi trực tiếp từ sinh viên. Đối với đối tượng khảo 
sát mở rộng là giảng viên, chúng tôi sử dụng công cụ 
điều tra trực tuyến SurveyMonkey để thu thập ý kiến, 
ghi nhận kết quả và xử lý bằng phép tính thống kê theo 
tỉ lệ %. 
2.3. Kết quả khảo sát và bình luận 
2.3.1. Tâm thế học tập của sinh viên đối với 
môn học Tiếng Anh chuyên ngành Giáo dục 
Mầm non 
Để tìm hiểu tâm thế học tập của sinh viên đối với 
môn học này, chúng tôi khảo sát ý kiến các sinh viên và 
các giảng viên chuyên ngành GDMN và sư phạm ngoại 
ngữ về sự cần thiết của việc đưa môn học này vào 
khung chương trình đào tạo, cũng như mức độ yêu thích 
môn học trong sinh viên. Số liệu thu được thể hiện ở 
Bảng 1 và 2 dưới đây: 
Bảng 1. Ý kiến sinh viên về sự cần thiết đưa môn học 
trong chương trình đào tạo 
Ý kiến 
(%) 
Có Không 
Không ý 
kiến 
SV 
(n=254) 
65,3 17,7 17,0 
GV 
(n=24) 
100,0 0,0 0,0 
Số liệu ở Bảng 1 cho thấy phần lớn sinh viên 
(65,3%, n=254) nhận thấy việc đưa môn học TACN 
GDMN vào chương trình đào tạo là cần thiết và hữu ích. 
Bên cạnh đó, kết quả phân tích số liệu thu được từ việc 
khảo sát ý kiến của các giảng viên chuyên ngành 
GDMN và sư phạm ngoại ngữ cũng cho thấy xu hướng 
đồng nhất quan điểm với các sinh viên nêu trên. 
Bảng 2. Ý kiến sinh viên về mức độ yêu thích môn học 
Ý kiến SV 
Rất 
thích và 
thích 
Không 
có ý kiến 
Không 
thích 
lắm 
Cực 
ghét 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),69-75 
 71 
% 
(n=254) 
46,0 11,0 28,0 15,0 
Dựa vào Bảng 2, có thể thấy tỉ lệ sinh viên yêu 
thích môn học này là khá cao (46%, n=254). Tỉ lệ sinh 
viên cực ghét môn học này là không đáng kể (15%, 
n=254). Tuy nhiên, khảo sát cũng cho thấy một tỉ lệ 
không nhỏ sinh viên dường như chưa sẵn sàng tiếp nhận 
môn học trong chương trình đào tạo, thể hiện ở việc các 
em không đưa ra ý kiến về môn học (11%, n=254) và 
lựa chọn đáp án “không thích lắm” đối với môn học này 
(28%, n=254). 
Kết quả phân tích ở Bảng 1 và 2 giúp khẳng định 
được ý nghĩa của việc đưa môn học TACN GDMN vào 
chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành GDMN. 
Tuy vậy có thể thấy nhiều (hơn 50%) sinh viên chưa có 
tâm thế tốt cho môn học này. 
2.3.2. Mục tiêu môn học Tiếng Anh chuyên 
ngành Giáo dục Mầm non 
Khảo sát đã tiến hành lấy ý kiến sinh viên cùng với 
các giảng viên chuyên ngành GDMN và sư phạm ngoại 
ngữ về 5 mục tiêu môn học TACN GDMN, bao gồm: 
(a) Mục tiêu 1: Bồi dưỡng và phát triển kỹ năng 
đọc, dịch và tìm kiếm tài liệu chuyên ngành bằng tiếng 
Anh của sinh viên; 
(b) Mục tiêu 2: Phát triển năng lực tự học của sinh 
viên để có thể tự mình tham khảo các tài liệu về chuyên 
ngành GDMN phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu 
khoa học cũng như công việc chăm sóc - GDMN sau 
khi ra trường; 
(c) Mục tiêu 3: Cung cấp cho sinh viên vốn từ vựng 
và các thuật ngữ TACN; 
(d) Mục tiêu 4: Giúp sinh viên củng cố kiến thức 
ngữ pháp tiếng Anh cơ bản; 
(e) Mục tiêu 5: Phát triển kỹ năng viết báo cáo và 
thuyết trình bằng TACN qua đó phát triển sự tự tin 
trong giao tiếp bằng tiếng Anh của sinh viên. 
Kết quả khảo sát được thể hiện trong Bảng 3 và 
Biểu đồ 1 dưới đây: 
Bảng 3. Mức độ quan trọng của các mục tiêu môn học 
Mục tiêu Mức độ (%, n=254) 
Không 
quan 
trọng 
Quan 
trọng 
Rất 
quan 
trọng 
Mục tiêu 1 42,2 35,5 22,3 
Mục tiêu 2 35,5 27,1 37,4 
Mục tiêu 3 41,9 31,1 27,0 
Mục tiêu 4 47,4 11,6 41,0 
Mục tiêu 5 21,2 13,1 65,7 
Biểu đồ 1. Mức độ quan trọng của các mục tiêu môn học 
Xếp theo thứ tự ưu tiên thì kết quả khảo sát cho 
thấy mức độ quan trọng của các mục tiêu sẽ là: (e) mục 
tiêu 5 - (b) mục tiêu 2 - (a) mục tiêu 1 - (c) mục tiêu 3 - 
(d) mục tiêu 4. Tuy nhiên, có thể thấy ít có sự khác biệt 
rõ rệt về mức độ quan trọng giữa các mục tiêu dạy học 
TACN GDMN như đề xuất ở trên theo nhận định của 
các sinh viên. Kết quả này cho thấy các mục tiêu trên 
đây đều là mục tiêu phổ biến và cần thiết được xem xét 
cân nhắc khi xây dựng chương trình môn học nhằm đáp 
ứng được nhu cầu của người học. Điều này hoàn toàn 
hợp lý bởi lẽ việc dạy học tiếng Anh nói chung, cũng 
như TACN nói riêng, không nên và cũng không thể tách 
bạch từng mục tiêu. Thay vào đó, các mục tiêu cần được 
hiện thực hóa một cách đồng bộ trong các hoạt động 
mang tính tích hợp. 
2.3.3. Các chủ đề yêu thích nên đưa vào môn học 
Tiếng Anh chuyên ngành Giáo dục Mầm non 
Khảo sát cũng tiến hành lấy ý kiến sinh viên và các 
giảng viên về các chủ đề (theme) thông dụng trong 
chuyên ngành GDMN để đánh giá mức độ yêu thích và 
tính phù hợp của các chủ đề khi đưa vào chương trình 
môn học. Các chủ đề đề xuất bao gồm: 
Đinh Thị Đoan Hương 
72 
(a) Theme 1: Outdoor Activities (Hoạt động ngoài trời) 
(b) Theme 2: Indoor Activities (Hoạt động trong lớp) 
(c) Theme 3: Arts in Early Childhood Education 
(Giáo dục nghệ thuật cho trẻ mầm non) 
(d) Theme 4: Children’s Learning: Sciences and 
Maths (Trẻ mầm non với hoạt động khám phá khoa học 
và tư duy toán học) 
(e) Theme 5: Children’s Learning: Languageand 
Literacy (Trẻ mầm non với hoạt động ngôn ngữ) 
Bảng 4. Mức độ phù hợp của các chủ đề đề xuất cho 
chương trình môn học 
Chủ đề 
(Theme) 
Mức độ (%, n=254) 
Phù hợp 
Bình 
thường 
Không 
phù hợp 
1 72,2 17,5 10,3 
2 68,1 20,3 11,6 
3 48,1 35,9 16,0 
4 62,2 19,5 18,3 
5 72,3 15,9 11,8 
Biểu đồ 2. Mức độ phù hợp của các chủ đề đề xuất cho 
chương trình môn học 
Theo số liệu điều tra, các sinh viên đều cho rằng 
các chủ đề là phù hợp, thể hiện ở các chỉ số chỉ mức độ 
phù hợp đạt từ 60-70% lượt ý kiến. Tỉ lệ % các ý kiến 
cho rằng chủ đề không phù hợp là rất thấp. 
Đối với các giảng viên chuyên ngành GDMN và sư 
phạm ngoại ngữ, kết quả cũng cho thấy họ thống nhất 
cao với hệ thống các chủ đề đề xuất trên đây. Tuy nhiên, 
trong phần ý kiến dành cho câu hỏi mở, có một số ý 
kiến trao đổi về cách gọi tên chủ đề sao cho hợp lý hơn. 
Một số ý kiến khác bày tỏ mối lo ngại về sự chồng chéo 
về mặt nội dung chủ đề khi thực hiện trên lớp. Đó cũng 
là những điểm đáng cân nhắc khi thiết kế hoạt động dạy 
học môn học này trên thực tế. 
2.3.4. Các kỹ năng cần rèn luyện cho sinh viên 
trong dạy học môn học Tiếng Anh chuyên 
ngành Giáo dục Mầm non 
Dựa trên tổng hợp các kỹ năng sử dụng ngoại ngữ 
trong quá trình dạy học TACN, nghiên cứu này đã khảo 
sát lấy ý kiến của sinh viên về mức độ cần thiết của việc 
rèn luyện hệ thống các kỹ năng dưới đây trong chương 
trình môn học TACN GDMN. Hệ thống bao gồm: 
(a) Kỹ năng 1: Nghe - hiểu văn bản có sử dụng TACN 
(b) Kỹ năng 2: Giao tiếp nói có sử dụng TACN 
(c) Kỹ năng 3: Đọc - hiểu văn bản có sử dụng TACN 
(d) Kỹ năng 4: Viết có sử dụng TACN 
(e) Kỹ năng 5: Báo cáo thuyết trình có sử dụng TACN 
(f) Kỹ năng 6: Dịch Anh - Việt/ Việt - Anh có sử 
dụng TACN 
(g) Kỹ năng 7: Tìm kiếm tài liệu TACN 
Số liệu khảo sát thu được thể hiện trong Bảng 5 và 
Biểu đồ 3 dưới đây: 
Bảng 5. Mức độ cần thiết của việc rèn luyện các kỹ 
năng ngôn ngữ 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),69-75 
 73 
Biểu đồ 3. Mức độ cần thiết của việc rèn luyện 
các kỹ năng ngôn ngữ 
Có thể thấy, các kỹ năng được sinh viên lựa chọn là 
kỹ năng cần thiết được rèn luyện trong chương trình 
môn học bao gồm: đọc - hiểu (kỹ năng 3), tìm kiếm tài 
liệu (kỹ năng 7), và báo cáo thuyết trình (kỹ năng 5). 
Nhóm các kỹ năng này chiếm tỉ lệ cao số lượt ý kiến 
của các sinh viên (> 75%). Tiếp đó, kỹ năng viết (kỹ 
năng 4) và kỹ năng dịch ngược - dịch xuôi (kỹ năng 6) 
là nhóm kỹ năng cũng được sinh viên khá quan tâm 
(> 60%). Cuối cùng, kỹ năng nghe - hiểu (kỹ năng 1) và 
kỹ năng giao tiếp nói (kỹ năng 2) là nhóm các kỹ năng 
được sinh viên ít quan tâm hơn so với các nhóm kỹ 
năng còn lại (>50%). Kết quả phân tích cho thấy xu 
hướng sinh viên có nhu cầu cao đối với việc rèn luyện 
các kỹ năng liên quan đến tiếng Anh phục vụ nghiên 
cứu, học thuật hơn là các kỹ năng liên quan đến việc sử 
dụng tiếng Anh trong giao tiếp. 
2.3.5. Biện pháp tổ chức dạy học Tiếng Anh 
chuyên ngành Giáo dục Mầm non 
Các biện pháp tổ chức dạy học TACN GDMN cũng 
được đề xuất dựa trên việc lựa chọn các biện pháp thông 
dụng trong dạy học tiếng Anh nói chung và TACN nói 
riêng, bao gồm: 
(a) Biện pháp 1: Học lý thuyết 
(b) Biện pháp 2: Thực hành - bài tập 
(c) Biện pháp 3: Thảo luận nhóm 
(d) Biện pháp 4: Sử dụng trò chơi 
(e) Biện pháp 5: Sử dụng bài hát 
Kết quả thu được như sau: 
Bảng 6. Mức độ thường xuyên sử dụng các biện pháp 
tổ chức dạy học môn học 
Các biện 
pháp 
Mức độ (%,n-254) 
Không 
thường 
xuyên 
Thường 
xuyên 
Luôn 
luôn 
Biện pháp 1 66,9 16,9 16,2 
Biện pháp 2 12,6 22,0 65,4 
Biện pháp 3 29,9 24,8 45,3 
Biện pháp 4 19,3 26,4 54,3 
Biện pháp 5 31,3 10,7 58,0 
Biểu đồ 4. Mức độ thường xuyên sử dụng các biện pháp 
tổ chức dạy học môn học 
Số liệu ở Bảng 6 và Biểu đồ 4 cho thấy một tỉ lệ 
cao ý kiến sinh viên (66,9%, n = 173) không thích học 
nặng về cung cấp lý thuyết đơn thuần (biện pháp 1). 
Trong khi đó, nhóm các biện pháp được các sinh viên 
đặc biệt đề xuất giảng viên thường xuyên và luôn luôn 
sử dụng gồm thực hành - bài tập (biện pháp 2) và sử 
dụng trò chơi (biện pháp 4). Tỉ lệ ý kiến đề xuất chiếm 
hơn 80% lượt ý kiến. Ngoài ra, nhóm các biện pháp 
thảo luận nhóm (biện pháp 3) và sử dụng bài hát (biện 
pháp 5) cũng được sinh viên đề xuất với tỉ lệ khá cao 
(>60%). Kết quả này cho thấy các sinh viên có xu 
hướng mong muốn trong quá trình dạy học giảng viên 
áp dụng các biện pháp tích cực hóa người học nhiều hơn 
là các biện pháp dạy học theo lối truyền thụ kiến thức 
truyền thống. 
2.4. Đề xuất 
Những kết quả phân tích trên đây là cơ sở giúp định 
hướng việc lựa chọn cách tiếp cận xây dựng chương 
trình môn học và thiết kế bài giảng TACN GDMN 
Đinh Thị Đoan Hương 
74 
nhằm đáp ứng nhu cầu của người học. Theo đó, những 
đề xuất sau đây được đưa ra đối với việc thiết kế, biên 
soạn chương trình và dạy học môn học TACN dành cho 
sinh viên sư phạm mầm non: 
- Thứ nhất, mục tiêu của sinh viên khi học môn học 
này là khá đa dạng, phong phú. Do vậy, cách tiếp cận 
soạn dạy chương trình môn học theo hướng tích hợp 
theo chủ đề có thể được xem là một hướng đi phù hợp 
nhằm đáp ứng được yêu cầu về một chương trình mang 
tính linh hoạt về nội dung, đa dạng về phương pháp và 
hình thức dạy học, đồng thời chú trọng việc phát huy 
khả năng của từng cá nhân trong lớp. 
- Thứ hai, chương trình môn học có thể lựa chọn 
nội dung xoay quanh các chủ đề được đề xuất trong 
nghiên cứu này. Trên thực tế, nội dung các chủ đề có sự 
giao thoa với nhau trong một phạm vi nhất định. Do 
vậy, khi biên soạn, việc lựa chọn nội dung trong từng 
chủ đề cần được xem xét kỹ lưỡng nhằm tránh sự lặp đi 
lặp lại về nội dung kiến thức. Bên cạnh đó, mỗi chủ đề 
cần được xem là một cơ hội để sinh viên được khám phá 
các lĩnh vực kiến thức, tăng cường vốn từ vựng chuyên 
ngành và thực hành các kỹ năng ngôn ngữ khác nhau 
cũng như hiện thực hóa các mục tiêu học tập môn học 
này theo nhu cầu của người học. Ngoài ra, nội dung 
chương trình môn học cũng cần chú trọng định hướng 
hình thành cho người học năng lực sử dụng TACN để 
phục vụ cho nghiên cứu khoa học và học thuật mang 
tính chuyên ngành hơn là phục vụ mục đích giao tiếp 
thông thường hoặc các mục đích khác. 
- Thứ ba, các hoạt động dạy học TACN trên lớp cần 
được thiết kế dựa theo quan điểm dạy học tích cực 
nhằm kích thích tối đa sự tham gia của người học vào 
các hoạt động, trong đó chú trọng sử dụng các biện pháp 
mang tính thực hành, trải nghiệm nhằm tăng tính tương 
tác giữa người học với nhau trong hoạt động. Để thực 
hiện được đề xuất này, yếu tố trang thiết bị cơ sở vật 
chất phòng học như: màn hình, máy chiếu, mạng 
internet cần được đầu tư một cách thỏa đáng. Hơn 
nữa, số lượng sinh viên trong lớp không nên quá đông 
để đảm bảo các hoạt động cá nhân và tương tác nhóm 
diễn ra một cách hiệu quả. 
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng khẳng định việc 
đưa môn học TACN vào khung chương trình đào tạo sư 
phạm mầm non là cần thiết và có ý nghĩa nhất định đối 
với sự phát triển năng lực nghề nghiệp của sinh viên. 
Tuy nhiên, cần có nghiên cứu đi sâu hơn về những rào 
cản mà sinh viên (có thể) gặp phải trong quá trình học 
tập bộ môn này. Trên cơ sở hiểu rõ những rào cản ấy, 
trong quá trình dạy học bộ môn này trên lớp giảng viên 
tìm những giải pháp nhằm giúp sinh viên giải quyết nỗi 
lo lắng phổ biến, tạo tâm thế tốt cho các sinh viên khi 
học bộ môn tiếng Anh này. 
3. Kết luận 
Tổ chức dạy học TACN cho sinh viên ngành 
GDMN là một hoạt động cần thiết, đặc biệt trong giai 
đoạn ngành GDMN trong nước đang có những bước 
chuyển mình mạnh mẽ theo hướng hội nhập cùng với xu 
hướng quốc tế hóa. Việc trang bị cho các sinh viên 
ngành GDMN năng lực ngoại ngữ, trong đó có năng lực 
sử dụng TACN, không những giúp sinh viên nâng cao 
khả năng thích ứng với yêu cầu phát triển chuyên môn, 
nghề nghiệp mà còn từng bước tạo nên một cơ sở nền 
tảng cho sự nghiệp đổi mới GDMN nước nhà. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hutchinson, T. and Waters,A. (1987), English for 
Specific Purposes, Cambridge University Press, 
Cambridge. 
[2] Luu Quy Khuong & Truong Thi Phuong Chi 
(2008), Exploring The Learning Needs Of 
Electronics Students At Hue Industrial College: 
Towards A Suggested Syllabus, Tạp chí Khoa học 
và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 27(4), tr.153-159. 
[3] Nguyễn Mai Linh (2013), A Needs Analysis for 
Electronics and Communications of 
Undergraduates at College of Information and 
Communication Technology – Thai Nguyen 
University, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại 
học Thái Nguyên, 112(12)/1, tr.261-266. 
[4] Robinson, P. (1991), ESP Today: A Practitioner's 
Guide, Prentice Hall International, New York. 
[5] Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) 
(2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung 
tâm Từ 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_nhu_cau_hoc_tieng_anh_chuyen_nganh_cua_sinh_vien_k.pdf
Tài liệu liên quan