Ngữ pháp giao tiếp và ngữ pháp Hàn lâm trong dạy - Học Tiếng Anh
Bài viết nhằm nêu một thực tế rằng nếu giải thích về sự khác biệt giữa tiếng Anh người bản ngữ dùng trong thực tế với tiếng Anh dạy ở trường là do lối nói thân mật hay không trang trọng là không thật thỏa đáng, dễ làm cho người học tiếng Anh tưởng rằng ngữ pháp tiếng Anh trong trường và ngoài trường học là một. Thông qua một vài ví dụ, người viết thấy rằng người bản xứ nói tiếng Anh theo ngữ pháp riêng (tạm dịch là ngữ pháp miêu tả hay ngữ pháp giao tiếp) còn trong trường học là ngữ pháp riêng (tạm dịch là ngữ pháp chuẩn mực hay ngữ pháp hàn lâm). Dựa trên một số khác biệt giữa hai loại ngữ pháp, người viết đề xuất một số gợi ý trong việc giảng dạy và sử dụng ngữ pháp tiếng Anh
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 67-72 67 NGỮ PHÁP GIAO TIẾP VÀ NGỮ PHÁP HÀN LÂM TRONG DẠY-HỌC TIẾNG ANH Đặng Ngọc Hướng*1 Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/8/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/2/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/2/2019 Tóm tắt: Bài viết nhằm nêu một thực tế rằng nếu giải thích về sự khác biệt giữa tiếng Anh người bản ngữ dùng trong thực tế với tiếng Anh dạy ở trường là do lối nói thân mật hay không trang trọng là không thật thỏa đáng, dễ làm cho người học tiếng Anh tưởng rằng ngữ pháp tiếng Anh trong trường và ngoài trường học là một. Thông qua một vài ví dụ, người viết thấy rằng người bản xứ nói tiếng Anh theo ngữ pháp riêng (tạm dịch là ngữ pháp miêu tả hay ngữ pháp giao tiếp) còn trong trường học là ngữ pháp riêng (tạm dịch là ngữ pháp chuẩn mực hay ngữ pháp hàn lâm). Dựa trên một số khác biệt giữa hai loại ngữ pháp, người viết đề xuất một số gợi ý trong việc giảng dạy và sử dụng ngữ pháp tiếng Anh. Từ khóa: thỏa đáng, giải thích/cho rằng . là bởi, đích thực, người học, ngữ pháp chuẩn mực/hàn lâm, ngữ pháp miêu tả/giao tiếp, những gợi ý về giảng dạy 1. Mở đầu Từ khi tôi học tiếng Anh đã lâu và cho đến bây giờ khi dạy tiếng Anh, tôi luôn nghĩ, học ngoại ngữ là học ngữ pháp. Ngữ pháp, theo định nghĩa trong từ điển Longman Dictionary of Contemporary English, xuất bản năm 2010, tr.763, là những quy tắc chi phối hình thái của từ và kết hợp từ trong câu. Nói cách khác, quy tắc ngữ pháp được nêu ra và người học một ngôn ngữ nào đó phải học và sử dụng chúng khi viết hoặc nói. Nếu người học tuân thủ các quy tắc đó thì ngôn ngữ họ dùng được coi là đúng, nếu không, bị coi là sai. Tuy nhiên, đôi khi tôi tự hỏi ngữ pháp tiếng Anh mà chúng ta học và dạy ở * Đại học Đại Nam trên lớp có phải là ngữ pháp người Anh dùng trong cuộc sống của họ hay không. 2. Cơ sở của ý tưởng Trong quá trình dạy tiếng Anh tôi đã gặp một vài thể loại tiếng Anh: tiếng Anh-Anh, tiếng Anh-Mỹ, tiếng Anh-Úc, tiếng Anh-Canada, vv. Tuy nhiên, một số trường hợp dưới đây khiến tôi có suy nghĩ rằng khi dạy hay học tiếng Anh chúng ta cần để ý một số khác biệt. Trường hợp thứ nhất, có lần sinh viên hỏi tôi rằng trong bài thi chứng chỉ TOEIC liệu chọn dạng đại từ ở tân cách trong cấu trúc so sánh với tính từ , ví dụ She is older than I am / me (Tạm dịch: Cô ấy hơn tuổi tôi) thì chọn từ me có đúng không. Em giải thích sở dĩ em chọn cách 68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion đó vì em đã đọc đâu đó rằng cả hai cách đều được, tuy nhiên cách dùng thứ hai kém trang trọng hơn. Tôi nói với em đó là trả lời như thế tuy không sai nhưng em phải chọn cách thứ nhất, dùng đại từ ở chủ cách, bởi lẽ trong câu đó, theo sách ngữ pháp tiếng Anh, từ than là liên từ nối hai mệnh đề, chứ không phải là giới từ. Trường hợp thứ hai, khi một sinh viên nữ hỏi tôi là trong sách ngữ pháp tiếng Anh có nói từ as (giống, như) là liên từ có nghĩa theo cách ai đó nói hay làm, ví dụ trong từ điển đã dẫn ở trên Do as I say (Tạm dịch: Hãy làm như như tôi nói, tr.82), nhưng đôi khi em lại gặp những câu có nghĩa tương tự lại dùng từ like là giới từ (giống, như) chứ không phải từ as, ví dụ: Nobody understands him like I do (Tạm dịch: Không ai hiểu anh ấy được như tôi). Trường hợp này có thể giải thích là as và like có cùng nghĩa so sánh nhưng dùng as thì trang trọng hơn. Ví dụ: Nobody understands him as I do. (https://dictionary.cambridge.org/vi/gra mmar/british-grammar/as-or-like). Một ví dụ nữa, có sinh viên hỏi tôi liệu có thể dùng liên từ đẳng lập để bắt đầu câu tiếng Anh hay không. Nói khác đi, những liên từ: for (vì), and (và), nor (cũng không), but (nhưng), or (nếu không), yet (nhưng), so (do vậy) những từ này viết tắt là FANBOYS khi viết có thể đứng đầu câu được không, ví dụ: I am very smart. Yet I do not enjoy school (Tạm dịch: Tôi không thông minh nhưng tôi không muốn đi học). Dĩ nhiên tôi trả lời là không dùng được; lý do là vì theo lý thuyết viết câu và quy tắc ngữ pháp thì liên từ đẳng lập chỉ dùng để nối hai mệnh đề nghĩa ngang bằng trong câu ghép tiếng Anh. Ở đầu câu chỉ có trạng từ nối như moreover (hơn nữa), besides (ngoài ra), hoặc những cụm từ nối như in addition (thêm nữa), apart from that (ngoài ra), mới dùng được. Tuy nhiên, trong lối văn nói và viết thông thường, đôi khi vẫn thấy người Anh dùng liên từ đẳng lập đứng đầu câu. Sau đây là hai ví dụ: [1] And let every other power know that this hemisphere intends to remain the master of its own house. [John F. Kennedy] (Tạm dịch: Và hãy để cho mọi thế lực biết rằng bán cầu này luôn muốn duy trì chủ nhân ngôi nhà của riêng nó) [2] But the truth is, these steps won’t make up for the seven million jobs that we’ve lost over the last two years. [Barack Obama]. (Tạm dịch: Nhưng quả là những bước đi này không thể bù đắp nổi bảy triệu việc làm chúng ta đã mất đi trong hai năm qua) Trường hợp thứ tư, có một sinh viên năm thứ ba vốn quan tâm tới trật tự từ trong câu tiếng Anh thắc mắc rằng trong sách ngữ pháp tiếng Anh nói rằng trạng từ hoặc ngữ trạng từ chỉ đứng ở đầu câu, giữa hoặc cuối câu, nếu ở giữa thì phải ở giữa chủ ngữ và vị ngữ như trong một vài ví dụ sau: [3] Apples always taste best when you pick them straight off the tree. (Tạm dịch: Táo vừa hái bao giờ cũng ngon nhất) [4] You can definitely never predict what will happen. (Tạm dịch: Bạn chắc chắn không thể nào đoán được điều gì sẽ xảy ra (trạng từ sau động từ tình thái)) Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 69 Khi trong câu có hơn một động từ thì giữa câu trạng từ chỉ đứng sau trợ động từ thứ nhất hoặc sau động từ tình thái. Ví dụ: [5] The government has occasionally been forced to change its mind. (Tạm dịch: Chính phủ đôi lúc cũng phải thay đổi quyết định (trạng từ đứng sau trợ động từ thứ nhất)) Tuy nhiên, trong câu tiếng Anh có động từ nguyên thể, trạng từ lại có thể đứng sau tiểu từ to và trước động từ nguyên thể, trường hợp này có tác giả gọi là nguyên mẫu chẻ. Nhiều nhà ngôn ngữ và ngữ pháp lấy tiếng Latin vốn không có hiện tượng này làm cơ sở cho tiếng Anh không chấp nhận cách dùng này, cho rằng dùng trạng từ như thế là sai. Dưới đây là một vài ví dụ: [6] She used to secretly admire him; (Tạm dịch: Cô ấy thường ngấm ngầm nhìn anh ta) [7] I would like the carpet to completely cover the floor. (Tạm dịch: Tôi muốn thảm phải trùm kín nền nhà) Tất cả những ví dụ trên là tôi lấy từ trải nghiệm của sinh viên nhưng chính tôi (có lẽ là cả các bạn cũng thế) đã gặp nhiều trường hợp người Anh đôi khi dùng những kiểu diễn đạt khác với những gì chúng ta dạy sinh viên. Ví dụ, khi đưa ra nhận xét hay ý kiến đôi khi người Anh bắt đầu bằng cụm từ như là I’m wondering (Tôi không chắc), I’m thinking (Tôi nghĩ) cho dù trong sách ngữ pháp tiếng Anh nói rằng những động từ thuộc loại này không dùng dạng tiếp diễn Tất cả những ví dụ mà sinh viên trải nghiệm hay do tôi quan sát đã nêu ở trên khiến tôi có suy nghĩ rằng những khác biệt ngôn từ vốn thường được giải thích là do cách nói thân mật liệu có thuộc cùng loại ngữ pháp mà chúng ta dạy sinh viên hay là thuộc một loại ngữ pháp khác. 3. Trao đổi Tôi tin rằng có thể còn nhiều trường hợp khác biệt hơn như tôi đã nêu. Tuy nhiên, tới thời điểm này câu hỏi đặt ra là những khác biệt ngôn ngữ ấy là do đâu, do lối nói thân mật hay vì lý do nào khác. Tôi không rõ khi dạy tiếng Anh các bạn đã bao giờ gặp các trường hợp như tôi không và khi đó các bạn giải thích thế nào, làm như tôi, nói rằng lối nói này là thân mật hơn lối nói kia hay là khi không giải thích được thì chỉ nói rằng quy tắc ngữ pháp là thế. Những ví dụ nêu trên, tôi thấy rằng, là minh chứng cho một loại ngữ pháp tiếng Anh khác, không phải loại ngữ pháp chúng ta đọc trong sách vở. Trong số những thể loại ngữ pháp khác nhau dựa vào cách miêu tả hay phân tích cấu trúc và chức năng ngôn ngữ như: ngữ pháp truyền thống, ngữ pháp sản sinh, ngữ pháp so sánh, ngữ pháp phổ thông, v.v., trong bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có hai loại ngôn ngữ riêng biệt, cùng tồn tại, một loại người bản xứ dùng, tạm dịch là ngữ pháp miêu tả hay ngữ pháp giao tiếp, còn loại ngữ pháp thứ hai do các nhà ngôn ngữ, các nhà ngữ pháp xây dựng nên, tạm dịch là ngữ pháp chuẩn mực hay ngữ pháp hàn lâm. Cả hai loại ngữ pháp đều quan tâm tới các quy tắc, nhưng theo cách khác nhau. Theo Nordquist (2008), các nhà nghiên cứu ngữ pháp giao tiếp nghiên cứu các quy tắc hay các mẫu kết hợp sử dụng từ, cụm từ, mệnh đề hoặc câu. Trái lại, các nhà ngữ pháp hàn lâm (ví dụ những người biên tập hay giáo viên) 70 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion thường áp đặt các quy tắc ngôn ngữ mà họ cho đó là cách dùng đúng. Nói khác đi, ngữ pháp giao tiếp quan tâm tới các mẫu ngôn từ, miêu tả cách từ ngữ thực tế người bản xứ sử dụng trong giao tiếp, không nêu ngôn ngữ dùng đúng hay sai. Trong khi đó ngữ pháp hàn lâm đưa ra các quy tắc người học phải tuân theo, nhấn mạnh vào việc dùng ngôn ngữ đúng hay sai dựa vào các quy tắc định sẵn. Loại ngữ pháp giao tiếp không dạy trong nhà trường mà chỉ kế tục từ thế hệ này qua thế hệ khác trong cộng đồng ngôn ngữ đó. Ngược lại, ngữ pháp hàn lâm phải được dạy trong nhà trường, những người học phải tuân theo quy tắc ngôn ngữ đó, giống như bệnh nhân phải uống thuốc theo kê đơn của bác sỹ vậy. Đồng quan điểm này, Kirvalidze (2013) cho rằng ngữ pháp giao tiếp là loại ngữ pháp được miêu tả rõ ràng và đầy đủ các cấu trúc ngữ pháp của một ngôn ngữ, không dạy quy tắc ngôn ngữ, mà chỉ miêu tả những quy tắc đã thành thói quen. Điều đó có nghĩa là loại ngữ pháp này không nói bạn phải nói thế nào, chỉ miêu tả mà không cần bạn phải hiểu quy tắc đó. Trái lại, khi học tiếng Anh ở trường, theo quy định bạn phải nắm được các quy tắc ngôn ngữ để sử dụng khi viết và nói. Loại ngữ pháp này nêu rất rõ các quy tắc tiếng Anh, liệt kê từ vựng và cách phát âm của chúng. Loại ngữ pháp này sinh viên và những người học lớn tuổi thường thấy khó nếu tự học. Người ta cho rằng khi đã biết tiếng, người học có thể tự so sánh ngữ pháp tiếng Anh sách vở với ngữ pháp người bản ngữ sử dụng trong thực tế. 4. Kết luận Ngữ pháp giao tiếp và ngữ pháp hàn lâm là hai loại ngữ pháp riêng biệt. loại thứ nhất được dùng trong cuộc sống thực tế, thuộc thế giới bên ngoài còn loại ngữ pháp thứ hai được dùng trong nhà trường, dùng cho những người được học hành. Những mẫu lời nói trong ngữ pháp giao tiếp chỉ cần bắt chước, không cần hiểu nhưng các quy tắc ngữ pháp hàn lâm thì phải học mới hiểu. Giáo viên chúng ta không thể trộn hai loại ngữ pháp khi dạy. Nhìn chung, chúng ta nên chấp nhận những nét giống nhau nhưng cũng phải nhận biết những khác biệt giữa chúng. Do vậy, chúng ta không thể chỉ dựa vào quy tắc ngữ pháp hàn lâm để nhận xét rằng viết hay nói như hai ví dụ sau đây là sai hay thân mật: She is younger than me (Tạm dịch: Cô ấy kém tuổi tôi) trong tiếng Anh hay Thông qua bài báo này cho thấy nhiều vấn đề về môi trường ngày càng trở nên trầm trọng (Tạm dịch: This article appears to indicate that many environmental isues have increasingly become more serious) trong tiếng Việt. Khi những trường hợp tương tự xảy ra, chúng ta nên khuyên sinh viên rằng học tiếng Anh phải viết và nói theo sách vở. Sinh viên cũng cần được biết rằng giáo viên sẽ kiểm tra kiến thức ngữ pháp và khả năng giao tiếp dựa trên ngữ pháp hàn lâm để đánh giá đúng-sai. Đồng thời, chúng ta cũng khuyến khích người học tiếp cận với tiếng Anh thực tế thông qua những bài viết có thực trong cuộc sống của người bản ngữ để người học tự họ có thể phát hiện những khác biệt giữa ngữ pháp sách vở và ngữ pháp giao tiếp (học theo phương pháp quy nạp). Tóm lại, nếu những trường hợp trao đổi ở trên vốn được giải thích rằng chúng được dùng một cách thân mật, tôi e rằng cách giải thích này có thể gây nhầm Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 71 lẫn và hiểu nhầm; người học tiếng Anh có thể nghĩ rằng chỉ có duy nhất một loại ngữ pháp và chỉ dùng các quy tắc của loại ngữ pháp này để thực hiện mọi kỹ năng ngôn ngữ. Đồng thời mọi sự khác biệt ngôn từ tiếng Anh, ví dụ; I ain’t (Tôi không), much discussion (thảo luận nhiều), much chance (nhiều cơ hội), I’ve been wanting to (Tôi lúc nào cũng muốn), you and me can (Bạn và tôi có thể), vv. người học đếu cho là không đúng hoặc đúng nhưng dùng theo cách thân mật. Thực ra, ở những nước nói tiếng Anh, hai loại ngữ pháp như vừa trao đổi cùng tồn tại, một loại dạy và học trong nhà trường và được sử dụng trong các văn bản trang trọng, còn loại kia dùng trong giao tiếp, trong cuộc sống thực tế. Nhân đây, tôi xin được ví việc dạy ngữ pháp cho sinh viên trong các bài giảng như dạy cách đá bóng. Chúng ta đều biết rằng có hai kiểu chơi đá bóng: bóng đá và bóng bầu dục, chúng có tên gọi khác nhau và luật chơi khác nhau. Chúng ta phải xác định dạy loại bóng nào để áp dụng luật chơi bóng đó. Nếu chơi bóng đá, thì chúng ta phải bắt lỗi người chơi bằng luật bóng đá, chứ không thể bằng luật bóng bầu dục. Tương tự, trong tiếng Anh khi gặp những khác biệt ngôn ngữ, cách giải thích dựa vào khác biệt ngữ pháp như vừa trình bày có thể có hiệu quả. 5. Chia sẻ Khi dạy ngữ pháp tiếng Anh, khi điều kiện cho phép, giáo viên nên giới thiệu qua về sự khác biệt giữa ngữ pháp hàn lâm và ngữ pháp giao tiếp để sinh viên biết khi nào sai hay đúng, hoặc khi nào áp dụng được và không áp dụng được (khi nói hoặc viết, trong môi trường học thuật hay trong giao tiếp bên ngoài,vv.) Khi dạy dịch, giáo viên nên hướng dẫn sinh viên hãy cẩn thận với những khác biệt của ngữ pháp giao tiếp và ngữ pháp hàn lâm cả trong tiếng Anh lẫn tiếng Việt để chọn cách dịch phù hợp, trong biên dịch thì áp dụng ngữ pháp hàn lâm, khi phiên dịch áp dụng kết hợp cả hai loại ngữ pháp. Ví dụ khi dịch câu tiếng Việt nêu ở trên: Thông qua bài báo này cho thấy nhiều vấn đề về môi trường ngày càng trở nên trầm trọng, sinh viên nên dựa vào cấu trúc Chủ-Vị trong ngữ pháp hàn lâm, không dựa vào trật tự từ trong ngữ pháp giao tiếp để dịch. Khi dạy viết, giáo viên nên hướng dẫn sinh viên học và chỉ áp dụng các quy tắc ngữ pháp hàn lâm trong khi học và trong các bài thi ngôn ngữ như TOEIC, IELTS, vv. Sinh viên cũng được nhắc nhở chỉ dùng ngữ pháp hàn lâm trong khi viết các văn bản liên quan công việc, văn bản trang trọng như hợp đồng, thư tín thương mại và trong viết hàn lâm (bài luận hoặc các bài nghiên cứu). Khi dạy đọc, nghe hoặc nói, giáo viên chúng ta nên khuyến khích sinh viên đọc nhiều và thu lượm những trường hợp ngôn từ đặc biệt, những đặc biệt trong cách dùng ngữ pháp giao tiếp, càng nhiều càng tốt, để mở rộng kiến thức, biết thêm từ và mẫu lời nói trong các bài thực tế. Bằng cách làm này, sinh viên có thể áp dụng những điều khám phá được vào thực tế giao tiếp với người Anh một cách hiệu quả khi có cơ hội. Tài liệu tham khảo: 1. https://dictionary.cambridge.org/vi/ grammar/british-grammar/as-or- like 72 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 2. https://news.collinselt.com/prescript ive-vs-descriptive-approaches-to- grammar/ 3. https://www.thoughtco.com/types- of-grammar-1689698 4. Longman Dictionary of Contemporary English, 2010, Pearson Education Limited. 5. Nino Kirvalidze (2013). Theoretical Course of English Grammar. Tbilisi, Ilia State University Địa chỉ tác giả: Đại học Đại Nam Email: nghuongss@gmail.com
File đính kèm:
- ngu_phap_giao_tiep_va_ngu_phap_han_lam_trong_day_hoc_tieng_a.pdf