Khảo sát ý kiến phản hồi của sinh viên chuyên ngành Tiếng Trung thương mại về chương trình giảng dạy khối kiến thức tiếng Trung Quốc
Khối kiến thức tiếng Trung Quốc trong Khung chương trình giảng dạy cho sinh viên chuyên
ngành tiếng Trung thương mại tại Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương gồm 27
môn học, với thời lượng mỗi môn 54 tiết (chia 18 buổi học), được sắp xếp theo mức độ tăng dần
về kiến thức và kỹ năng. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cảm thấy số lượng, thời lượng và cách sắp
xếp một số môn học chưa thực sự hợp lý. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã khảo
sát lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về ba nội dung “số lượng môn học”, “thời lượng môn học”
và “cách sắp xếp môn học” trong chương trình giảng dạy khối kiến thức tiếng Trung Quốc. Kết
quả nghiên cứu này sẽ giúp Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương nắm bắt nhu
cầu học tập của sinh viên và có định hướng điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập
cho sinh viên.
ến hành khảo sát và lấy ý kiến phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chương trình giảng dạy các khối kiến thức tiếng Trung Quốc. Trong quá trình thu thập thông tin phản hồi, nhóm nghiên cứu đã tập trung lấy ý kiến của năm khóa sinh viên tốt nghiệp gần nhất, bao gồm các khóa 48, 49, 50, 51, 52. Kết quả thu về 52 phiếu trên tổng số 85 sinh viên tốt nghiệp (K48-17SV; K49-16SV; K50-16SV; K51-19SV; K52-17SV). Số lượng phiếu phản hồi của từng khóa lần lượt là K48 (14 phiếu), K49 (13 phiếu), K50 (6 phiếu), K51 (13 phiếu), K52 (6 phiếu). Dưới đây là kết quả đánh giá của sinh viên tốt nghiệp về số lượng, thời lượng và cách sắp xếp môn học ở các học kỳ trong năm học: (xem bảng 6). Bảng 6. Phản hồi của sinh viên tốt nghiệp (Khóa 48-52) về chương trình giảng dạy các khối kiến thức tiếng Trung Quốc Nội dung đánh giá Phản hồi của SV Đồng ý Không đồng ý Số lượng môn học 18 (34,6%) 34 (65,4%) Thời lượng môn học 35 (67,3%) 17 (32,7%) Sắp xếp môn học ở các năm học 46 (88,5%) 6 (11,5%) Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết 92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Trong ba nội dung lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên tốt nghiệp ở bảng trên, “số lượng môn học” là nội dung được sinh viên đánh giá thấp nhất, vì có đến 65,4% sinh viên cho ý kiến không tán thành và phản hồi cần có sự điều chỉnh về số lượng môn học. Trong đó nổi bật là các quan điểm: “Bỏ hoàn toàn các môn lý thuyết tiếng (Ngữ âm – Văn tự, Từ vựng học, Ngữ pháp học), vì thực tế công việc sau khi sinh viên ra trường không sử dụng, hoặc nếu không thể cắt bỏ cả ba môn học này trong Khung chương trình đào tạo thì điều chỉnh giảm bớt môn Ngữ âm – Văn tự. Với các môn thực hành tiếng thì cần điều chỉnh giảm bớt các môn cơ sở. Bên cạnh việc điều chỉnh giảm bớt, sinh viên cũng có yêu cầu điều chỉnh tăng thêm đối với một số môn học, cụ thể là điều chỉnh tăng thêm đối với môn Dịch, môn chuyên ngành và một số môn kỹ năng như Nghe, Nói”. Về “thời lượng môn học”, số sinh viên có quan điểm tán thành đã khá hơn, chiếm 67,3% (tương đương với 2/3 số sinh viên đưa ra ý kiến phản hồi). Tuy nhiên, 32,7% sinh viên còn lại cho rằng: “Đối với sinh viên đã học tiếng Trung nhiều năm, nên cắt giảm thời gian học các môn tiếng Trung cơ bản. Ngoài ra, sinh viên chuyên ngành TTTM cũng không cần học quá sâu và chi tiết các môn Lý thuyết tiếng, do đó nên rút ngắn thời gian học của các môn học này. Thay vào đó, cần thiết điều chỉnh tăng thời lượng đối với một số môn như tiếng Hán thương mại, Dịch (cả dịch nói và dịch viết) vì đây là những môn học khó, kiến thức nặng mà thời lượng học trên lớp lại ít, sinh viên cảm thấy không đủ thời gian để học tốt môn học”. Về cách sắp xếp môn học, số liệu tại bảng trên phản ánh, đa số sinh viên tốt nghiệp (88,5%) hài lòng với cách sắp xếp môn học ở các năm học, chỉ có 11,5% sinh viên có mong muốn điều chỉnh. Theo các em, việc phân bổ các môn học chuyên ngành bằng tiếng Trung ở các kỳ học cần chú ý sự hài hòa và phù hợp với thời gian học các môn chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Việt. Vì giữa các môn học này có sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cũng nhờ có những môn học chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Việt mà sinh viên tiếp thu kiến thức chuyên ngành bằng tiếng Trung dễ dàng và chắc chắn hơn. Ngoài ra, sinh viên tốt nghiệp cũng cho ý kiến, một số môn học cần có sự điều chỉnh để việc học tập đạt hiệu quả hơn, cụ thể: các môn Lý thuyết tiếng nên sắp xếp học ở năm thứ nhất và năm thứ hai; các môn Ngôn ngữ kinh tế thương mại 1,2,3,4 nên đảm bảo đúng trình tự, tránh sắp xếp giảng dạy đồng thời (song song) để sinh viên hiểu kỹ các nội dung bài học có liên quan”. Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, ý kiến phản hồi của sinh viên tốt nghiệp có khá nhiều điểm chung với ý kiến phản hồi của sinh viên chưa tốt nghiệp. Đó là nhu cầu giảm bớt số lượng và thời lượng các môn học tiếng Trung cơ bản (đối với sinh viên đã học nhiều năm tiếng Trung), cắt bỏ các môn học mang tính lý thuyết như Ngữ âm – Văn tự, Từ vựng học và Ngữ pháp học để tăng thêm số lượng và thời lượng các môn học chuyên ngành và kỹ năng hỗ trợ chuyên ngành. Điều đó phản ánh, nhu cầu điều chỉnh số lượng và thời lượng của các môn học nói trên không phải chỉ ở một bộ phận sinh viên chưa tốt nghiệp mà nhiều sinh viên tốt nghiệp cũng có mong muốn như vậy. Ngoài ra, sinh viên tốt nghiệp cũng có ý kiến riêng về việc sắp xếp các môn học giảng dạy chuyên ngành bằng tiếng Trung và tiếng Việt để phát huy tối đa sự tương trợ giữa các môn học trong chương trình giảng dạy. Đây là vấn đề sinh viên chưa tốt nghiệp chưa đánh giá được do các em kết thúc năm học nào thì đánh giá năm học đó mà chưa có cái nhìn tổng thể và bao quát đối với tất cả các môn học trong Khung chương trình đào tạo. 4. KẾT LUẬN Tổng hợp các quan điểm trên của sinh viên chưa tốt nghiệp và sinh viên tốt nghiệp, nhóm nghiên cứu thấy rằng, đánh giá của các em sinh 93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 12 - 3/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v viên về chương trình giảng dạy khối kiến thức tiếng Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: Một là, sự phù hợp của các môn tiếng Trung cơ bản đối với trình độ đầu vào của sinh viên, cụ thể là sinh viên có trình độ tiếng Trung đầu vào “bằng không” và sinh viên đầu vào đã học tiếng Trung từ 4 đến 7 năm; Hai là, sự cần thiết và tính ứng dụng của một số môn học mang tính lý luận ngôn ngữ đối với công việc sau khi sinh viên ra trường; Ba là, nhu cầu tăng thêm một số môn học nhằm phát triển kỹ năng thực hành tiếng và nâng cao kiến thức chuyên ngành như các môn: Nghe, Nói, Viết, Dịch; Bốn là, sự phù hợp trong cách sắp xếp các môn học giữa các kỳ học, đặc biệt là các môn chuyên ngành bằng tiếng Trung và tiếng Việt để tạo nên mối quan hệ tương trợ lẫn nhau. Các vấn đề này cho thấy, mong muốn điều chỉnh chương trình giảng dạy của sinh viên hoàn toàn gắn liền với thực tế học tập và công việc. Nổi bật trong đó là mong muốn giảm bớt các môn học mang tính lý thuyết và ít tính ứng dụng đối với sinh viên Đại học Ngoại thương, thay vào đó là điều chỉnh tăng thêm số lượng và thời lượng các môn học cung cấp kiến thức chuyên ngành và hỗ trợ chuyên ngành. Cũng từ các thông tin phản hồi này mà Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương hiểu hơn về nguyện vọng cũng như nhu cầu học tập của các em sinh viên chuyên ngành TTTM, để từ đó có căn cứ điều chỉnh tăng hay giảm các môn học trong chương trình giảng dạy và xây dựng lộ trình học tập các môn học cụ thể và logic hơn. Trước các vấn đề sinh viên đặt ra, hiện tại Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương đã thực hiện được việc phân lớp theo đúng trình độ thông qua việc phân loại đầu vào sinh viên thi bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Đồng thời, Khoa tiếng Trung Quốc cũng đã điều chỉnh tăng thêm 02 môn học (môn Dịch và Tài chính đầu tư) để đáp ứng nguyện vọng tăng thêm số lượng các môn học chuyên ngành. Ngoài ra, đối với việc sắp xếp môn học, Khoa tiếng Trung Quốc cũng đã chú ý đến việc sắp xếp các môn học chuyên ngành bằng tiếng Trung phù hợp với các môn học chuyên ngành bằng tiếng Việt để mang lại hiệu quả học tập cho sinh viên. Còn việc điều chỉnh tăng thêm đối với các môn kỹ năng như Nghe – Nói – Viết và điều chỉnh giảm bớt hoặc cắt bỏ các môn học mang tính lý luận ngôn ngữ chưa được thực hiện. Nhưng những vấn đề này sẽ được Khoa tiếng Trung Quốc đưa ra họp bàn, thảo luận và chốt phương án điều chỉnh khi ban hành Khung chương trình mới đáp ứng chuẩn đầu ra được xây dựng năm 2017./. Tài liệu tham khảo: 1. Đại học Ngoại thương (2010), Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Trung Quốc nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, Kỷ yếu hội nghị khoa học, Khoa tiếng Trung Quốc, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 2. Đại học Ngoại thương (2014), Tuyển tập các chương trình đào tạo trình độ đại học, Hà Nội. 3. Lê Thanh Thùy Dương (2016), Những vấn đề còn tồn tại trong giảng dạy tiếng Hán thương mại tại trường Đại học Ngoại thương, Kỷ yếu hội thảo liên Khoa ngoại ngữ “Áp dụng chuẩn đầu ra theo khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ thương mại tại trường Đại học Ngoại thương”, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Thanh Hằng (Chủ nhiệm đề tài, 2009), Khảo sát nhu cầu học tiếng Trung Quốc tại Đại học Ngoại thương, Đề tài cấp trường, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 5. Lê Quang Sáng (2015), Xây dựng chương trình đào tạo chuyên ngành tiếng Hán thương mại đầu vào tiếng Trung Quốc, nâng cao chất lượng đầu ra, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giảng dạy ngoại ngữ thương mại tại Đại học Ngoại thương đến năm 2020”, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI A FEEDBACK SURVEY BY THE STUDENTS OF BUSINESS CHINESE ON CHINESE TEACHING PROGRAM HOANG THANH HUONG Abstract: Chinese teaching curriculum for the students of business Chinese at Chinese Faculty, Foreign Trade University consists of 27 subjects, the duration of each subject is 54 periods (divided into 18 sessions), which are arranged by the level of knowledge and skills. However, many students feel that the number, duration and arrangement of some subjects are not reasonable so they express some desire to adjust them. To better understanding this issue, we made a students’ feedback survey on “the number of subjects”, “the duration of subjects” and “the arrangement of subjects” in Chinese teaching program’s framework. The results of this research will help the Chinese Faculty of Foreign Trade University to understand the student’s learning needs and then make appropriate adjustments to improve students’ learning efficiency. Keywords: Chinese teaching program’s framework, survey, business Chinese Received: 11/12/2018; Revised: 22/02/2018; Accepted for publication: 28/02/2018
File đính kèm:
- khnnqs_12_3_2018_85_94_hoang_thanh_huong_8736_2136227.pdf