Tổ chức dạy học tiếng Anh cho sinh viên đạt chuẩn bậc 3 (B1) theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam tại trường đại học xây dựng miền trung - Thực trạng và giải pháp
Trong bối cảnh toàn cầu hóa,
ngoại ngữ đóng vai trò then chốt và là
chìa khóa để phát triển hội nhập.
Trong đó Tiếng Anh đã trở thành 1 ngôn
ngữ chung được sử dụng trên rất nhiều
quốc gia và là điều kiện tiên quyết
trong tiến trình hội nhập và phát triển.
Nếu thông thạo tiếng Anh, sinh viên
có nhiều cơ hội tìm được việc làm và
thành công trong công việc trong
tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng
của ngoại ngữ, ngày 30 tháng 9 năm
2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định 1400/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn
2008-2020” với mục tiêu chung là “
Đổi mới toàn diện việc dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân, triển khai chương trình dạy
và học ngoại ngữ mới ở các cấp học,
trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015
đạt được một bước tiến rõ rệt về trình
độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
nguồn nhân lực, nhất là đối với một số
lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số
thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung
cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng
lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin
trong giao tiếp, học tập, làm việc trong
môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa
văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế
mạnh của người dân Việt Nam
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 122 TỔ CHỨC DẠY HỌC TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN ĐẠT CHUẨN BẬC 3 (B1) THEO KHUNG NĂNG LỰC NGOẠI NGỮ 6 BẬC DÙNG CHO VIỆT NAM TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG MIỀN TRUNG - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ThS. Nguyễn Thị Kim Cúc CN. Bùi Nguyên Tuân Trung Tâm Ngoại ngữ - Tin học, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Theo tinh thần của đề án ngoại ngữ quốc qia 2020 của Thủ tướng Chính phủ, sinh viên trước khi tốt nghiệp phải đạt chuẩn bậc 3(B1) theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Với sự chỉ đạo của nhà trường, từ năm học 2014-2015 trường Đại học Xây dựng Miền trung đã triển khai mô hình dạy bồi dưỡng tiếng Anh tương thích với khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam cho sinh viên đại học. Trung tâm Ngoại ngữ Tin học đã khẩn trương nghiên cứu biên soạn chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu. Qua quá trình triển khai thực hiện giảng dạy giúp nâng cao năng lực tiếng Anh của sinh viên và điều kiện chuẩn bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, tác giả xin nêu ra thực trạng môn học tiếng Anh hiện nay ở trường Đại học Xây dựng Miền trung đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc đào tạo Tiếng Anh nhằm giúp sinh viên đại học đạt chuẩn bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam theo qui định bộ Giáo dục và Đào tạo và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cuả xã hội. Từ khóa: Tổ chức dạy Tiếng Anh, chuẩn bậc 3 (B1), Trường Đại học xây dựng Miền Trung, Thực trạng – giải pháp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, ngoại ngữ đóng vai trò then chốt và là chìa khóa để phát triển hội nhập. Trong đó Tiếng Anh đã trở thành 1 ngôn ngữ chung được sử dụng trên rất nhiều quốc gia và là điều kiện tiên quyết trong tiến trình hội nhập và phát triển. Nếu thông thạo tiếng Anh, sinh viên có nhiều cơ hội tìm được việc làm và thành công trong công việc trong tương lai. Nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ, ngày 30 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1400/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” với mục tiêu chung là “ Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 123 sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.” Để đáp ứng yêu cầu chung của nhà trường và của xã hội, hiện nay trường Đại học Xây dựng Miền trung đang ra sức đào tạo, giảng dạy để nâng cao hiệu quả đào tạo tiếng Anh ở các bậc học đặc biệt là bậc đại học giúp sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam được qui định của Bộ giáo dục đào tạo. Việc đào tạo tiếng Anh ở trường Đại học Xây dựng Miền trung được quan tâm đáng kể, từ việc nâng cao trình độ giáo viên, đến việc lựa chọn giáo trình và biên soạn chương trình cho phù hợp với từng nhóm đối tượng sinh viên cũng như việc thay đổi cách kiểm tra đánh giá theo hướng áp dụng một số chứng chỉ quốc tế để xác định trình độ người học. Sự nỗ lực này đã góp phần cải thiện tình hình giảng dạy và học tập tiếng Anh trong nhà trường. Tuy nhiên, cho đến nay trường Đại học Xây dựng Miền trung vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức dạy và học giúp sinh viên có thể đạt chuẩn đầu ra theo quy định. Sự khó khăn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau cần xem xét và đánh giá khách quan để có những biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh trong nhà trường giúp sinh viên đạt trình độ ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra theo Bộ giáo dục đào tạo qui định. 1. Đối tƣợng sử dụng, ý nghĩa sử dụng và mức độ tƣơng thích giữa Khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam (KNLNNVN) và Khung tham chiếu chung Châu Âu Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam áp dụng cho các chương trình đào tạo ngoại ngữ, các cơ sở đào tạo ngoại ngữ và người học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Việc vận dụng theo chuẩn khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc có ý nghĩa rất lớn đối với người dạy và người học. Giáo viên, giảng viên có thể lựa chọn và triển khai nội dung, cách thức giảng dạy, kiểm tra, đánh giá để người học đạt được yêu cầu của chương trình đào tạo. Giáo viên xây dựng chương trình, biên soạn hoặc lựa chọn giáo trình, sách giáo khoa, kế hoạch giảng dạy, các tài liệu dạy học ngoại ngữ khác và xây dựng tiêu chí trong kiểm tra, thi và đánh giá ở từng cấp học, trình độ đào tạo, bảo đảm sự liên thông trong đào tạo ngoại ngữ giữa các cấp học và trình độ đào tạo. Bên cạnh đó người học có thể hiểu được nội dung, yêu cầu đối với từng trình độ năng lực ngoại ngữ và tự đánh giá năng lực của mình. Hơn nữa việc vận dụng chuẩn khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, trao đổi giáo dục, công nhận văn bằng, chứng chỉ với các quốc gia ứng dụng Khung tham chiếu chung Châu Âu-(CEFR) COMMON EUROPEAN FRAMEWORK. KNLNNVN được phát triển trên cơ sở tham chiếu, ứng dụng CEFR và một số khung trình độ tiếng Anh của các nước, kết hợp với tình hình và điều kiện thực tế dạy, học và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam KNLNNVN được chia làm 3 cấp (Sơ cấp, Trung cấp và Cao cấp) và 6 bậc (từ Bậc 1 đến Bậc 6 và tương thích với Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 124 các bậc từ A1 đến C2 trong CEFR). Cụ thể như sau: KNLNNVN CEFR Sơ cấp Bậc 1 A1 Bậc 2 A2 Trung cấp Bậc 3 B1 Bậc 4 B2 Cao cấp Bậc 5 C1 Bậc 6 C2 • Khung quy chiếu chung các trình độ ngoại ngữ. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại nhiều các phân chia trình độ ngoại ngữ sử dụng các thang đo khác nhau. Tuy nhiên, ý nghĩa của các thang đo này thường rất gây trở ngại cho việc chuyển đổi và công nhận lẫn nhau giữa các hệ thống. Chẳng hạn, một sinh viên đã có chứng chỉ FCE sẽ được xem là tương đương với trình độ nào của TOEIC hay TOEFL? Cũng vậy, ở Việt Nam các trình độ ngoại ngữ được chia làm 3 mức là A (sơ cấp), B (trung cấp), và C (nâng cao), nhưng cụ thể người học ở mỗi trình độ có thể làm được những gì thì hầu như chẳng có ai có thể mô tả rõ ràng. Trên thực tế, hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp chứng chỉ trình độ B do nơi này cấp sẽ cao hơn hoặc thấp hơn chứng chỉ B do nơi khác cấp. Để giải quyết vấn đề trên, CEF đã đưa ra một khung quy chiếu chung về năng lực ngoại ngữ của người học tạo điều kiện đánh giá chính xác năng lực học tập cho người học bao gồm 6 mức trình độ tổng quát như sau: Trình độ A (sử dụng căn bản): gồm 2 mức A1 (giao tiếp „theo công thức formulaic), và A2 (giao tiếp đơn giản); Trình độ B (sử dụng độc lập): gồm 2 mức B1 (giao tiếp độc lập trong một số tình huống hạn chế); và B2 (giao tiếp độc lập trong những tình huống quen thuộc); Trình độ C (sử dụng thành thạo): gồm 2 mức C1 (giao tiếp chủ động và thành thạo trong nhiều tình huống đa đạng), và C2 (giao tiếp chủ động và thành thạo trong hầu hết mọi tình huống). Ngoài 6 mức trình độ này, có thể nêu thêm 3 mức trình độ trung gian là A2+, B1+ và B2+, để trở thành 1 thang đo 9 mức. Sự phân biệt giữa tất cả các mức trình độ này được mô tả rất chi tiết và rõ ràng trong công trình đã nêu. Để dễ dàng cho việc tham chiếu, các mức trình độ nói trên được sắp xếp thành một Thang đo tổng quát (Global Scale) theo thứ tự từ cao đến thấp (từ trình độ C2 đến trình độ A1), mỗi trình độ có kèm những điểm quy chiếu liên quan đến những khả năng sử dụng ngôn ngữ của người học, được viết bằng ngôn ngữ thông thường để bất cứ ai đọc lên cũng có thể hiểu. Thang đo tổng quát này vừa nhằm cung cấp một bản mô tả chung về trình độ cho những người sử dụng chứng chỉ (học viên, nhà tuyển dụng, vv), đồng thời đưa ra những định hướng tổng quát cho việc xây dựng mục tiêu học tập và giảng dạy của học viên và giảng viên. Tính tổng quát của các mức trình độ nói trên cho phép CEF trở thành khung quy chiếu chung để thực hiện quy đổi tương đương giữa các chứng chỉ ngoại ngữ hiện có. 2. Thực trạng trong việc giảng dạy và học tiếng Anh ở trƣờng Đại học Xây dựng Miền trung hiện nay Trước tiên chúng ta tìm hiểu một số nguyên nhân thách thức trong quá Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 125 trình thực hiện lộ trình giảng dạy sinh viên đạt chuẩn đầu ra theo quy định. 2.1. Thái độ học tập của sinh viên Trước hết phải kể đến thói quen thụ động trong học ngoại ngữ đã hình thành từ bậc phổ thông đối với số đông sinh viên. Tính thụ động này còn thể hiện qua hiện tượng thường xuyên không chuẩn bị bài, và chưa biết chủ động trong học tập của nhiều sinh viên. Trình độ của sinh viên không đồng đều. Mặc dù đã học tiếng Anh nhiều năm ở trường phổ thông nhưng kỹ năng nghe nói tiếng Anh rất yếu, kết quả kiểm tra tiếng Anh đầu vào chỉ có khoảng 7% sinh viên đạt yêu cầu. Phần lớn sinh viên nhìn nhận ngoại ngữ là một môn học kiến thức chứ không phải là quá trình tập luyện để đạt được kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong những ngữ cảnh phù hợp. Hơn nữa, sinh viên cho rằng tiếng Anh không phải là môn chuyên ngành chỉ là môn điều kiện nên hầu hết sinh viên học đối phó và chỉ cần bài thi đạt yêu cầu là được. Hầu hết sinh viên chưa tìm ra động lực học tập cũng như phương pháp học thích hợp, nói cách khác, họ ngại học tiếng Anh và nhiều khi lảng tránh việc nghe nói tiếng Anh. 2.2. Phương pháp dạy học của giáo viên Trường Đại học xây dựng Miền trung có đội ngũ giảng viên có có trình độ chuyên môn vững vàng, giàu kinh nghiệm và nhiệt tình giảng dạy. Luôn tự trau dồi chuyên môn trong giảng dạy. Việc bồi dưỡng năng lực tiếng Anh được quan tâm đáng kể, nhiều giảng viên tiếng Anh được nhà trường cử đi đào tạo ở nước bản ngữ nên trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy giao tiếp và trau dồi kỹ năng qua các bài tập tình huống có lẽ chưa được áp dụng triệt để. Trên lớp giáo viên còn giảng giải nhiều (teacher talk) thay vì vài trò người hướng dẫn (facilitator), dành nhiều thời giảng cấu trúc ngữ pháp, giải bài tập, đề kiểm tra, chưa tổ chức các hoạt động thực hành ngôn ngữ, khuyến khích, và động viên trải nghiệm thực tế. Giáo viên vẫn là trung tâm của quá trình giảng dạy, điều đó đồng nghĩa với việc sinh viên là đối tượng thụ động tiếp thu thông tin, họ chỉ làm theo những yêu cầu của giáo viên mà ít có sáng tạo trong việc sử dụng kiến thức mà họ đã tích lũy được. 2.3. Công tác kiểm tra đánh giá Hiện nay, công tác kiểm tra đánh giá quá trình đang có lợi cho người học và thành tích chung trong công tác chuyên môn. Tuy nhiên, độ tin cậy của điểm số và việc đánh giá quá trình có tạo ra được tác động tích cực hay không tới việc trau dồi tiếng Anh của sinh viên vẫn luôn là câu hỏi nghi vấn. Thực tế cho thấy điểm số cao là do hiện diện trên lớp được tính điểm trong mục chuyên cần. Thêm vào đó là điểm thái độ đánh giá tinh thần học tập „động viên học trò là chính‟ trong tư tưởng của chúng ta khi cho điểm phần trình bày và thiếu công cụ đánh giá trực tiếp kiến thức kỹ năng cũng góp phần tăng thêm điểm ảo tạo nên việc đánh giá vẫn chưa tạo được tác động tích cực tới thái độ học tập của người học. Hay nói các khác, những quy định hướng dẫn về tiêu chí đánh giá chưa đủ chặt chẽ và cụ thể giúp tối đa giá trị điểm số, công bằng với người học, và quan trọng nhất là tạo được động Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 126 cơ hướng đến chất lượng của thành tích học tập. 2.4. Thời lượng và giáo trình giảng dạy Theo sự phân phối chương trình đào tạo dành cho sinh viên bậc đại học ở trường Đại học xây dựng Miền trung từ năm 2012 đến nay, tiếng Anh cơ bản gồm có 3 học phần trong đó học phần Anh văn 1 (2 tín chỉ), Anh văn 2 (2 tín chỉ), Anh văn 3 (2 tín chỉ) và tiếng Anh chuyên ngành ( 2 tín chỉ). Như vậy thời lượng học tiếng Anh của sinh viên trên lớp là 8 tín chỉ tương đương với 120 tiết. Qua hội thảo khoa học “ Tổ chức dạy và học ngoại ngữ nhằm thúc đẩy và hỗ trợ người học đạt chuẩn khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo” tại trường đại học Phú Yên ngày 14/03/2014 cho thấy rằng ở các trường đại học khác thời lượng đào tạo tiếng Anh cao hơn nhiều so với trường Đại học xây dựng Miền trung. Hầu hết thời lượng giảng dạy tiếng Anh ở các trường đại học từ 180 tiết trở lên tương đương với 12 tín chỉ. Như vậy, để giúp cho sinh viên đạt chuẩn bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam là một thách thức lớn đối với đội ngũ giảng viên của trung tâm Ngoại ngữ Tin học trường Đại học xây dựng Miền trung. Từ năm học 2010 đến nay trường, Trung tâm Ngoại ngữ Tin học trường Đại học xây dựng Miền trung đã sử dụng bộ sách New Cutting Edge của Sarah Cunningham Peter Moor, Pearson Longman như là giáo trình chính thức cho việc giảng dạy tiếng Anh căn bản. Đây là bộ giáo trình được cập nhật nhiều thông tin mới tích hợp 4 kỹ năng ngôn ngữ với nhiều chủ đề hay phù hợp với cuộc sống, bài tập đa dạng, hình ảnh rõ nét màu sắc sinh động, âm thanh trong đĩa rõ ràng, dễ nghe với tốc độ vừa phải. Tuy nhiên, hầu hết sinh viên đều sử dụng sách photo cho việc học tập. Vì sách phô tô nên chữ viết, hình ảnh rất nhỏ, mờ có phần không nhìn thấy, hình ảnh chỉ đen và trắng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy sáng tạo của sinh viên, giảng giải hình ảnh khi phát triển các kỹ năng nghe, nói của sinh viên, chất lượng học tập chưa phát huy hiệu quả. 2.5. Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học Lãnh đạo nhà trường có quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy, máy chiếu để phục vụ giảng dạy, một phòng lab 30 máy dành cho sinh viên rèn luyện kỹ năng trong giờ học ngôn ngữ. Hơn nữa, trường cũng đã trang bị hệ thống thi kiểm tra trắc nghiệm trên máy tính và chuẩn bị đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, nhìn chung trang thiết bị này vẫn còn hạn chế. Hầu hết, các phòng học cho giờ học tiếng Anh chưa trang bị loa, mirco. Mô hình lớp học được thiết lập chưa phù hợp đối với đặc thù giờ học tiếng Anh, lớp học còn quá đông, đa số hơn 50 sinh viên trên một lớp làm hạn chế hoạt động theo cặp nhóm, làm cho việc quản lý lớp của giáo viên gặp nhiều khó khăn. Internet đã được trang bị nhưng rất yếu, chưa được sử dụng hiệu quả cho hoạt động dạy và học của giảng viên và sinh viên trên lớp. 3. Một vài giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh giúp sinh viên đạt chuẩn đầu ra theo KNLNNVN theo mô hình sử dụng CEF. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 127 Qua khảo sát các kết quả nghiên cứu đã thực hiện trong nhiều năm nay, cùng với tình hình thực trạng nêu trên chúng tôi mạnh dạn đưa ra những đề xuất theo hướng tích cực góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại trường Đại học Xây dựng Miền trung. 3.1. Đối với sinh viên Trước hết là giải pháp dành cho người học. Nhất thiết phải thức tỉnh nhận thức của sinh viên về tính tự chủ trong học tập - yếu tố quan trọng nhất trong quá trình thực hiện lộ trình đạt chuẩn đầu ra. Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh cho thấy sự tương quan theo tỷ lệ thuận giữa khả năng làm chủ được quá trình học và thành tích cao trong hoạt động học thuật (Rubin. 2005: 51). Chính vì vậy, luôn chủ động trong học tập phải là một trong những thói quen của người biết cách học hay của một chuyên gia học tập theo cách gọi của Joan Rubin trong The Expert Language Learner: a Review of Good Language Learner Studies and Learner Strategies (Rubin.2005). Theo học giả Rubin, tính tự chủ của người học thể hiện qua việc người học biết hoạch định, thực hiện và làm chủ được kế hoạch đặt ra bằng cách hiểu rõ được khó khăn, thuận lợi. Sau đó biết đánh giá, nhìn nhận việc học của mình cùng với việc tìm ra giải pháp khắc phục. Quy trình này lặp lại nhiều lần theo mô hình vòng tròn tự chủ trong học tập (Learner – self management. 2005:46) Vì vậy, để tăng nhận thức và khả năng tự học của sinh viên liên quan đến môn học và hướng đến đạt chuẩn bậc 3 sinh viên nên xem xét triển khai một số biện pháp cụ thể như sau: Thường xuyên hoạch định mục tiêu cụ thể cho từng học kỳ, chủ động phấn đấu trong học tập để đạt chuẩn. Nắm rõ đặc thù môn học ngoại ngữ: yêu cầu lượng thời gian nhất định giúp thực hành phương châm đơn giản là học đều, thường xuyên thay vì học dồn. Nâng cao nhận thức và khả năng tự học của mỗi sinh viên thông qua việc thực hiện các bài tập làm thêm hoặc nâng cao thường xuyên tại lớp. Tích cực tham gia các hoạt động trên lớp, chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng cho cặp, nhóm hoặc trước lớp, tập diễn đạt suy nghĩ của mình bằng tiếng Anh, mạnh dạn trao đổi với giáo viên những vấn đề chưa rõ liên quan đến bài học. Chú ý rèn luyện và trau dồi phương pháp học các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Hiểu rõ và thành thạo phương pháp học (learning strategies) sẽ giúp người học phát huy tối đa tính tự chủ trong học tập. Tìm hiểu và vận dụng DIALANG – hệ thống kiểm tra trực tuyến các ngoại ngữ miễn phí, giúp sinh viên có cơ hội tự đánh giá trình độ tiếng Anh của mình và nhận các phản hồi vể những điểm mạnh và điểm yếu của chính mình trên website: www.dialang.org. 3.2. Đối với giảng viên Trước hết, giảng viên xây dựng động cơ học tập cho sinh viên, phân tích cụ thể mục đích của môn học và tầm quan trọng của việc tiếng Anh. Trên lớp giảng viên cần phát huy vai trò là hướng dẫn viên, và hỗ trợ khi cần thiết, tạo sinh viên chủ động hơn trong học tập. Sử dụng CEF làm cơ sở xây dựng chương trình, lựa chọn giáo trình, xác Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 128 định mức trình độ đầu vào, đầu ra, mức tăng trưởng, và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Tăng thời lượng để rèn kỹ năng nghe nói cho sinh viên, khai thác công nghệ thông tin để hỗ trợ tối đa cho việc luyện âm, ngữ điệu và khả năng diễn đạt lưu loát của của sinh viên. Để khuyến khích sinh viên tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập, giảng viên cần tạo ra nhiều hoạt động trên lớp, làm việc theo cặp theo nhóm, qua đó giảng viên có thể xây dựng quy trình đánh giá ghi điểm thưởng và điểm phạt cho mỗi hoạt động tham gia trên lớp. Giảng viên hạn chế sử dụng tiếng Việt trên lớp và khuyến khích sinh viên nghe nói bằng tiếng Anh trên lớp. Giảng viên tích cực bồi dưỡng chuyên môn của mình qua việc tự điều chỉnh và hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ, tăng hiệu qủa hoạt động sư phạm trên lớp, cải tiến trong giảng dạy và học tập - hoạt động được coi là tất yếu, trực tiếp thúc đẩy chất lượng công tác đào tạo và đòi hỏi người dạy cần phát huy tối đa tính năng động và sáng tạo trong việc luôn tìm kiếm các biện pháp nghiệp vụ cụ thể. Tích cực tham gia vào các hội thảo khoa học, sinh hoạt chuyên môn để ngày càng giàu kinh nghiệm hơn trong công việc giảng dạy giúp sinh viên đạt chuẩn bậc 3 theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 3.3. Đối với nhà trƣờng Nhà trường trang bị đầy đủ phương tiện phù hợp với điều kiện giảng dạy đặc thù cho giờ học tiếng Anh, trang thiết bị nghe nhìn, internet đảm bảo chất lượng phục vụ cho vi
File đính kèm:
- to_chuc_day_hoc_tieng_anh_cho_sinh_vien_dat_chuan_bac_3_b1_t.pdf