Quan hệ ngữ đoạn - Liên tưởng ứng dụng trong việc dạy và học Tiếng Anh
Trong việc dạy và học tiếng nói chung và
tiếng Anh nói riêng chúng ta luôn luôn vận dụng
hai quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng. Giữa
những nhóm kết hợp ngữ đoạn hình thành như vậy
có một mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau; các nhóm
đó qui định lẫn nhau. Quả nhiên, sự kết hợp trong
không gian góp phần tạo nên sự kết hợp liên tưởng,
và những sự kết hợp này lại cần thiết cho sự phân
tích các bộ phận của ngữ đoạn.
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 72 QUAN HỆ NGỮ ĐOẠN- LIÊN TƯỞNG ỨNG DỤNG TRONG VIỆC DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH Hồ Thị Mỹ Linh và Đặng Tường Lê Trung tâm Ngoại Ngữ - Tin Học, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt Trong việc dạy và học tiếng nói chung và tiếng Anh nói riêng chúng ta luôn luôn vận dụng hai quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng. Giữa những nhóm kết hợp ngữ đoạn hình thành như vậy có một mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau; các nhóm đó qui định lẫn nhau. Quả nhiên, sự kết hợp trong không gian góp phần tạo nên sự kết hợp liên tưởng, và những sự kết hợp này lại cần thiết cho sự phân tích các bộ phận của ngữ đoạn. Từ khóa Mối quan hệ ngữ đoạn, liên tưởng, tiền tố, hậu tố. 1. Đặt vấn đề Thực trạng việc dạy và học tiếng Anh của sinh viên trường Đại học Xây dựng Miền Trung còn một số băn khoăn ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của môn học. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn tiếng Anh nhiều năm cho sinh viên chúng tôi cố gắng tìm kiếm nhiều giải pháp để nâng cao trình độ tiếng Anh cho sinh viên. Chúng tôi nhận thấy rằng những hiểu biết về ngôn ngữ học góp phần không nhỏ cho chúng tôi tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ của sinh viên và giúp sinh viên tiếp thu bài giảng tốt hơn. Chúng tôi đặc biệt quan tâm về mối quan hệ ngữ đoạn và liên tưởng trong ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. “Những mối quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng hoạt động trong hai lĩnh vực riêng biệt, trong đó mỗi quan hệ tạo ra một loại giá trị riêng. Nó tương ứng với hai dạng thức hoạt động tinh thần của chúng ta, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống của ngôn ngữ [7]. Đây là một trong những phát hiện quan trọng và quý báu cho thế hệ sau này – những người nghiên cứu ngôn ngữ và cả những nhà sư phạm trong ứng dụng dạy tiếng nói chung và tiếng Anh nói riêng. 2. Định nghĩa Vấn đề dạy ngoại ngữ mang tính đặc thù của việc dạy ngôn ngữ nước ngoài và truyền đạt văn hóa, kiến thức khoa học được diễn đạt bằng ngôn ngữ đó. Thực tế cho thấy rằng dạy và học tiếng Anh phải dựa trên các nguyên tắc phương pháp luận về dạy và học ngoại ngữ nói chung. Theo Ferdinand de Sausure, “một mặt thì trong lời nói, các từ kết lại với nhau và do sự nối tiếp nhau của các từ mà có những mối quan hệ hình thành trên cơ sở nguyên lý tuyến tính Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 73 của ngôn ngữ, đó là cái đặc điểm khiến người ta không thể nói ra hai yếu tố cùng một lúc” [7]. Những yếu tố này lần lượt nối tiếp nhau trong ngữ lưu. Những kết hợp dựa trên sự nối tiếp đó có thể gọi là những ngữ đoạn (syntagmes). Như vậy ngữ đoạn bao giờ cũng gồm có hai hay nhiều đơn vị nối tiếp nhau. Chẳng hạn: - There is a washing machine (có một cái máy giặt) - There is a washing machine in the kitchen.(có một cái máy giặt trong nhà bếp) v. v. Nằm trong một ngữ đoạn, một yếu tố sở dĩ có được giá trị của nó chỉ là vì nó đối lập với những cái đi trước hay đi sau nó, hoặc với cả hai. Mặt khác, ở bên ngoài lời nói, các từ vốn cùng có một cái gì đó chung, nên được liên hệ lại trong kí ức, và như vậy là hình thành những nhóm khác nhau, trong đó có những mối liên hệ rất đa dạng. Chẳng hạn từ employment (công việc) bất giác hiện lên trong óc một loạt những từ khác - employer, composer, singer, worker, teacher, v.v. - hoặc development, achievement, excitement, v.v. - hoặc unemployment, employee, v.v. Ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, những từ này đều cùng có một cái gì đấy là chung. Ta thấy rằng những sự liên hệ này thuộc một loại khác hẳn những sự liên hệ kia. Chỗ dựa của nó không phải là sự nối tiếp nhau trong không gian; nơi trú ngụ của nó là trong óc; nó là một thành phần của cái kho tàng ở bên trong làm thành ngôn ngữ ở từng cá nhân. Chúng ta sẽ gọi những mối liên hệ đó là những mối quan hệ liên tưởng. Quan hệ ngữ đoạn là một quan hệ hiện diện (in presence) trong lời nói; nó dựa trên hai hay nhiều yếu tố cùng có mặt trong một ngữ đoạn hiện thực. Trái lại, quan hệ liên tưởng nối liền những yếu tố khiếm diện (in absence) thuộc một hệ thống tìm tàng trong kí ức [7]. 3. Những mối quan hệ ngữ đoạn Quan hệ ngữ đoạn không phải chỉ có thể nói tới quan hệ ngang giữa các đơn vị cùng loại mà thôi, như các quan hệ giữa âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ mà còn có thể ứng dụng cho những nhóm từ, những đơn vị phức hợp, dù lớn nhỏ ra sao và dù thuộc loại nào cũng vậy (từ ghép, từ phát sinh, thành phần câu, câu trọn vẹn). Trong việc dạy tiếng Anh, quan hệ ngữ đoạn được ứng dụng rất nhiều, nhất là khi ta hướng dẫn học viên về cấu trúc ngữ pháp. Dựa vào quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ, người dạy tiếng Anh có thể chứng minh cho học viên thấy được từ một câu đơn giản có thể phát triển thành một câu khác với nhiều thành phần hơn góp phần phong phú hơn về cấu trúc, thậm chí về ngữ nghĩa. Trong một câu tiếng Anh đơn giản với đầy đủ thành phần chủ vị, ta có thể phát triển tiếp tục dựa vào quan hệ ngang như sau: (a) I do my homework .(Tôi làm bài tập về nhà) S V O C V (b) At the moment, I am doing my homework.( Hiện tại, tôi đang làm bài tập về nhà) Adv S V O Trn C V (c) At the moment, I am doing my homework with John. (Hiện tại, tôi đang làm bài Adv S V O1 Pre O2 tập về nhà với John ) (d) At the moment, I am doing my homework with John who is my brother. ( Hiện Adv S1 V1 O1 Pre O2 S2 V2 C tại,tôi đang làm bài tập về nhà với John cậu ấy là em trai tôi) Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 74 Chúng ta thấy rằng, từ câu đơn (a) có dạng cấu trúc một SVO trong tiếng Anh và tương đương CV trong tiếng Việt, theo quan hệ ngữ đoạn, có thể mở rộng thành những câu có nhiều SV. Nhưng có một điều khác tiếng Việt từ câu (a) sang câu (b) có sự thay đổi hình thức của động từ (do am doing) cho phù hợp với trạng từ at the moment chứ không gĩư nguyên như cú pháp tiếng Việt, vì tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình. Ở đây, có thể có một ý kiến phản bác. Câu là điển hình tiêu biểu của quan hệ ngữ đoạn. Nhưng nó thuộc về lời nói, chứ không thuộc về ngôn ngữ; như vậy chẳng phải ngữ đoạn thuộc lĩnh vực lời nói hay sao? Chúng tôi cho rằng không phải thế. Thuộc tính tiêu biểu của lời nói là sự tự do trong những cách kết hợp; vậy cần tự hỏi xem có phải tất cả các ngữ đoạn đều tự do như nhau không. Câu trả lời là không, vì quan hệ ngữ đoạn thuộc phạm vi ngôn ngữ, chứ không phải của lời nói, tất cả những kiểu ngữ đoạn xây dựng trên những hình thái có tính quy tắc. Chẳng hạn trong tiếng Anh; - A beautiful girl (một cô gái đẹp) - A beautiful girl is my teacher (cô gái đẹp là giáo viên của tôi) - A beautiful girl who you met last week is my teacher (cô gái đẹp mà bạn gặp tuần trước là giáo viên của tôi) Nhưng phải thừa nhận rằng trong lĩnh vực ngữ đoạn không có ranh giới dứt khoát giữa sự kiện ngôn ngữ tiêu biểu cho sự vận dụng tập thể, với sự kiện lời nói, lệ thuộc vào tự do cá nhân. Trong rất nhiều trường hợp, khó lòng phân loại một kiểu kết hợp đơn vị, vì cả hai nhân tố đều có góp phần để sản sinh ra nó, với những phần đóng góp mà người ta không thể nào xác định được. Như vậy, khi người dạy tiếng Anh phải chứng minh cho người học thấy tiếng Anh cũng như tiếng Việt có thể bằng quan hệ ngữ đoạn (syntagmatic) chứng minh cho sinh viên thấy cách phát triển cấu trúc phong phú trong câu. 4. Những mối quan hệ liên tưởng Những nhóm hình thành nên do sự liên tưởng, không phải chỉ tập hợp những yếu tố có một cái gì đấy là chung; trí tuệ còn nắm được cả bản chất của những mối quan hệ giữa các yếu tố đó trong từng trường hợp và do đó mà có bao nhiêu thứ quan hệ thì tạo ra bấy nhiêu chuỗi liên hệ suy tưởng. Chẳng hạn trong employment, employer, employ, employee, v.v. có một yếu tố chung cho tất cả các từ : đó là căn tố ; nhưng từ employment có thể được bao gồm trong một chuỗi, dựa trên cơ sở một yếu tố chung khác, hậu tố (Chẳng hạn employment, development, excitement, v.v.); sự liên tưởng dựa trên tiền tố (chẳng hạn unemployment, unable, unhappiness, independence, v.v.); sự liên tưởng cũng có thể chỉ dựa trên sự tương tự của những cái được biểu hiện (employment, education, happiness, v.v.) hay ngược lại chỉ dựa trên sự giống nhau giữa những hình ảnh âm thanh (chẳng hạn right và write ). Vậy là, khi thì có sự tương đồng hai mặt, cả về ý nghĩa lẫn hình thức, khi thì chỉ có sự tương đồng hoặc về ý nghĩa hoặc về hình thức. Một từ nào đó bao giờ cũng có thể gợi lên tất cả những cái gì có thể liên tưởng với nó bằng cách này hay cách khác. 4.1. Liên tưởng theo hậu tố (suffix) Liên tưởng theo hậu tố (suffix) là những chữ cái hay một nhóm chữ cái được thêm vào phần đầu của từ và thường làm biến đổi hình thức của từ đó. Bằng phương pháp này, người dạy có thể cung cấp cho người học cách biến đổi từ tính từ (adjective) sang trạng từ (adverb), tính từ (adjective) sang danh từ (noun), động từ (verb) sang tính từ (adjective) v.v. hoặc hướng dẫn người học nhận biết hàm ý của từ qua hậu tố (suffix). Ví dụ: - Tính từ (adjective) thêm hậu tố ly trở thành trạng từ (adverb) Tính từ (adj) + ly Trạng từ (adv) careful carefully Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 75 happy happily beautiful beautiffully quick quickly usual usually - Tính từ (adjective) thêm hậu tố ness trở thành danh từ (noun) Tính từ (adj) + ness danh từ (noun) happy happiness ill llness lonely loneliness - Động từ (v) + less tính từ (adj) care careless hope hopeless use useless - Hậu tố - er, - or , - ist thêm vào động từ trở thành danh từ chỉ người. teach (v): dạy teacher(n) : giáo viên work (v) : làm worker (n) : công nhân act (v) : hành động actor (n) : diễn viên type (v): đánh máy typist (n) :nhân viên đánh máy 4.2. Liên tưởng theo tiền tố (prefix) Liên tưởng theo tiền tố (prefix) là những chữ cái hay một nhóm chữ cái được thêm vào phần đầu của từ và đôi khi làm cho từ đó mang nghĩa ngược lại. Như vậy, theo phương pháp này, liên tưởng theo tiền tố (prefix) cũng giống như liên tưởng theo hậu tố (suffix) người dạy tiếng Anh cũng cung cấp cho học viên cách nhận biết được hàm ý của từ qua tiền tố đó. Ví dụ : Happy (a) : hạnh phúc unhappy (a) : bất hạnh Employment n) công việc unemployment (n) thất nghiệp usual (a) bình thường unusual (a) không bình thường Tương tự: Re- trong rewrite (từ write); rebuild (từ build); replace (từ place) v.v. In- trong independent (từ dependent) v.v. Mis- trong misunderstand (từ understand) v.v. Micro- trong microbe (vi khuẩn); microspore (kính hiển vi) v.v. 4.3. Liên tưởng những từ có cùng cách phát âm Trong tiếng Anh có nhiều từ có cách phát âm giống nhau như chính tả và nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó người dạy phải cung cấp cho người học biết để người học dùng từ đúng với tình huống. Ví dụ: Right (a): đúng write(v): viết no (a): không know(v): biết where (adv): ở đâu wear(v): mặc there (adv): ở đó their(p.a): của họ 5. Mối quan hệ ngữ đoạn- liên tưởng Trong khi ngữ đoạn khiến ta lập tức nghĩ đến một trật tự kế tục và một số yếu tố nhất định, thì những thành viên của một tộc do liên tưởng tạo nên lại không hề cho thấy một số lượng rõ ràng hay một trật tự nhất định. Nếu liên tưởng từ employer đến singer, đến worker v.v. thì không thể nói trước số lượng những từ được ký ức gợi lên là bao nhiêu, và sẽ xuất hiện theo trật tự nào. Một yếu tố nào đó cũng giống như trung tâm của một chòm sao, là cái điểm quy tụ của những Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 76 yếu tố khác liên hệ với nó, mà số lượng không được xác định. Ta thử xét nhóm this employer chẳng hạn. Có thể biểu hiện nhóm này trên một cái dải đặt ngang, tương ứng với dòng ngữ lưu: This employer goes out .Nhưng đồng thời, và trên một trục khác lại có trong tiềm thức một hay nhiều nhóm liên tưởng, gồm những đơn vị cùng có một yếu tố chung với ngữ đoạn, ví dụ như: this, that, the v.v., và employer, employee, employment, v.v. Có thế ta mới hiểu được sự tác động phối hợp của cái hệ thống song đôi này trong lời nói. Ký ức chúng ta tàng trữ sẵn tất cả các kiểu ngữ đoạn phức hợp ít hay nhiều, dù những ngữ đoạn đó thuộc loại nào và lớn nhỏ bao nhiêu cũng vậy, và đến khi cần dùng đến, ta viện những nhóm liên tưởng ra để lựa chọn. Chẳng hạn This employer goes out at weekends. (Người làm công này đi chơi vào cuối tuần) These employers go out at weekends (những người làm công này đi chơi vào cuối tuần) This employer went out yesterday. (Hôm qua, người làm công này đi chơi) These employers went out yesterday. (Hôm qua, những người làm công này đi chơi) v.v. Dựa vào các quy tắc của hình thái quy định việc lựa chọn this employer chứ không phải là these employers; v.v. trong mỗi nhóm chúng ta cần biết phải biến đổi cái gì để có được sự phân biệt cần thiết cho đơn vị đang tìm. Hễ người ta thay đổi cái ý cần diễn đạt, thì sẽ cần đến những sự đối lập khác để biểu hiện một giá trị khác. Như vậy, trong cái thủ thuật này, mà nội dung là loại trừ trong óc tất cả những gì không dẫn tới sự phân biệt cần thiết ở điểm cần thiết, các nhóm liên tưởng và các loại ngữ đoạn đều có tác dụng, 6. Kết luận Như vậy, tri thức ngôn ngữ học luôn hữu ích cho bất cứ ai. Nó vô cùng cần thiết trong công tác giảng dạy tiếng nói chung và dạy tiếng Anh nói riêng. Một lần nữa, chúng tôi vô cùng biết ơn đến nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ Ferdinand de Sausure vì ông là người đầu tiên làm cho ngôn ngữ học trở thành một khoa học thực sự nhờ có một đối tượng minh xác và một phương pháp luận hiển ngôn. Ông là người mở đường cho cho ngôn ngữ học hiện đại của thế giới- ngôn ngữ học cấu trúc. Trong đó, toàn bộ hoạt động của hệ thống ngôn ngữ được thể hiện trên hai quan hệ: ngữ đoạn (trục tuyến tính) và liên tưởng (trục dọc). Sau quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng việc giảng dạy của chúng tôi đạt được nhiều kết quả tốt vì vậy chúng tôi cho rằng giáo viên dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng cố gắng tìm hiểu về ngôn ngữ học để góp phần nâng cao trình độ tiếng Anh của sinh viên của trường Đại học Xây dựng Miền Trung. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nhà xuất bản giáo dục. [2] Hà Văn Bửu (1999), Văn phạm Anh văn miêu tả, NXB Trẻ; [3] Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nhà xuất bản đại học và giáo dục chuyên nghiệp. [4] Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á, Đại học sư phạm Ngoại ngữ. [5] Raymond Murphy (2006), English Grammar in Use, Cambridge University Press. [6] Robert Lado, (1957), Linguitics across cultures, Unv.of Michigan. [7] F. de Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương, Nhà xuất bản KHXH. [8] Stuart Redman (2007), English Vocabulary in Use, Cambridge University Press. [9] V.M. Solnsev (1976), Bàn về khả năng so sánh các ngôn ngữ, Nhà xuất bản Khoa học Moskva. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 77 NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG TIỆN GDTC NHẰM TRANG BỊ THỂ LỰC CHUYÊN MÔN NGHỀ NGHIỆP Lại Văn Học Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt Quá trình trang bị thể lực chung và thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho sinh viên, học sinh các trường đào tạo kỹ thuật cũng như dạy thực hành nghề, phải tạo thành một thể thống nhất các phương tiện GDTC theo hướng phù hợp với đối tượng và đặc điểm nghề nghiệp. Vì vậy thực hiện các bài tập gần giống các thao tác lao động và phức tạp hơn thế là một trong những nét đặc trưng của phương pháp lựa chọn các phương tiện giáo dục thể chất để nhằm phát triển thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho học sinh sinh viên các trường kỹ thuật mang tính thực hành nghề. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ giới thiệu tóm tắt những nhiệm vụ và đặc điểm về phương pháp lựa chọn các phương tiện giáo dục thể chất, nhằm phát triển thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho học sinh sinh viên các trường kỹ thuật nói chung và mang đặc tính nghề nghiệp đặc trưng chuyên ngành xây dựng của chúng ta. Từ khóa Lựa chọn các phương tiện GDTC 1. Những nhiệm vụ chuẩn bị thể lực chuyên môn nghề nghiệp. Phát triển các tố chất thể lực chuyên môn nghề nghiệp được thực hiện trên cơ sở nền tảng của chuẩn bị thể lực chung. Việc chuẩn bị thể lực chuyên môn cho các nghề nhằm trực tiếp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật thực hành nghề, phát triển những năng lực thể chất nhằm đáp ứng yêu cầu chuyên môn của hoạt động nghề nghiệp, góp phần hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo nghề và nâng cao tính ổn định của cơ thể đối với những tác động làm ảnh hưởng tới những hoạt động lao động. Nếu biết kết hợp tốt giữa quá trình học kỹ thuật thực hành nghề và chuẩn bị thể lực chuyên môn thì tốc độ nắm vững các thao tác lao động sẽ nhanh và hiệu quả. Ngược lại trình độ thể lực chuyên môn không đầy đủ sẽ không đáp ứng được trình độ nâng cao tay nghề. Việc chuẩn bị tốt tố chất thể lực chuyên môn thực hành nghề không chỉ nâng cao chất lượng học tập thực hành, chuẩn bị đầy đủ những phẩm chất và thể lực cho sinh viên học sinh học tập, mà còn rút ngắn được thời gian đào tạo, giảm được chi phí trong đào tạo mà còn kéo dài tuổi thọ thực hành tay nghề. Từ những cơ sở khoa học đã nêu trên, nhiệm vụ chuẩn bị thể lực chuyên môn bao gồm những yếu tố sau: - Phát triển những năng lực thể chất, nhằm đáp ứng những nhu cầu chuyên môn của những hoạt động thực hành nghề đã chọn (tức là những năng lực trong cấu trúc của những phẩm chất nghề nghiệp) - Hình thành và hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết để nắm Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 78 vững những thao tác lao động nghề nghiệp nhất định. - Nâng cao tính đề kháng của cơ thể trước những tác động bất lợi do điều kiện đặc thù của từng hoạt động nghề nghiệp gây ra. - Thông qua sự chuẩn bị thể lực chuyên môn, góp phần phát triển những phẩm chất tâm lý theo yêu cầu của nghề nghiệp. Những nhiệm vụ trên đây được giải quyết kết hợp thống nhất với những nhiệm vụ giáo dục chung và giáo dưỡng nghề nghiệp và được cụ thể hóa với đặc điểm, tính chất của từng nghề. Tùy theo đặc điểm tính chất của từng nhóm nghề, người ta đã áp dụng rộng rãi các phương tiện tập luyện từ các môn thể thao, thể dục bổ trợ, thể dục cơ bản, điền kinh, bơi lôiĐặc biệt có một số nghề cần phải có sự chuẩn bị chuyên môn rất khắt khe, nếu không có sự chuẩn bị thể lực chuyên môn nghề nghiệp tốt thì không thể thực hiện được, có thể liệt kê ra như nghề lái máy bay, nghề lái tàu biển, nghề khai thác mỏ, luyện gang thépđòi hỏi phải có sự chuẩn bị thể lực chuyên môn kỹ càng để tăng sức chịu đựng của cơ thể, trong điều kiện làm việc thiếu dưỡng khí, nhiệt độ cao, áp suất cao, say sóng Các phương tiện chuẩn bị tố chất thể lực chuyên môn trong nhóm thực hành nghề rất đa rạng và phong phú, nhưng khi sử dụng với mục đích nào đó cần hướng vào khả năng chức phận của cơ thể mà sự phát triển chưa đầy đủ gây cản trở khả năng lao động của nghề. Ví dụ như nhóm nghề làm việc trên độ cao, hay dưới độ sâu, sự bất ổn định, thiếu ôxy do không khí loãng có ý nghĩa rất quan trọng. Để nâng cao tính ổn định của cơ thể đối với môi trường bên ngoài khi tiến hành quá trình l
File đính kèm:
- quan_he_ngu_doan_lien_tuong_ung_dung_trong_viec_day_va_hoc_t.pdf