Nghiên cứu hành động: Tinh chỉnh các hoạt động trong giảng dạy Tiếng Anh

Trong hai thập kỷ qua, nghiên cứu hành động (NCHĐ) trong giảng dạy

ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng, đang tỏ ra là công cụ hữu hiệu cho giảng

viên ở các bậc học và ngày càng có nhiều giảng viên ứng dụng phương pháp này. Bài

viết trình bày những vấn đề cơ bản về lý thuyết và các bước cụ thể thực hiện NCHĐ

giúp giảng viên, đặc biệt là giảng viên tiếng Anh, thực hành NCHĐ, điều chỉnh và tinh

chỉnh các hoạt động giảng dạy để nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy và học tiếng

Anh, đáp ứng đòi hòi ngày càng cao của xã hội

pdf4 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hành động: Tinh chỉnh các hoạt động trong giảng dạy Tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
64Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG:
TINH CHỈNH CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH
TS. Nguyễn Trọng Đàn*
Tóm tắt: Trong hai thập kỷ qua, nghiên cứu hành động (NCHĐ) trong giảng dạy 
ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng, đang tỏ ra là công cụ hữu hiệu cho giảng 
viên ở các bậc học và ngày càng có nhiều giảng viên ứng dụng phương pháp này. Bài 
viết trình bày những vấn đề cơ bản về lý thuyết và các bước cụ thể thực hiện NCHĐ 
giúp giảng viên, đặc biệt là giảng viên tiếng Anh, thực hành NCHĐ, điều chỉnh và tinh 
chỉnh các hoạt động giảng dạy để nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy và học tiếng 
Anh, đáp ứng đòi hòi ngày càng cao của xã hội.
Từ khoá: Nghiên cứu hành động, dạy - học tiếng Anh, điều chỉnh, tinh chỉnh, 
hoạt động sư phạm, phát triển chuyên môn, hiệu quả giảng dạy.
Abstract: Over the past two decades, action research (AR) in foreign language 
teaching in general, and in English in particular, has been an effective tool for teachers 
at all levels, and more and more teachers have applied action research methods. In this 
paper, we would like to present theoretical basics and specific steps for the implementation 
of the AR which helps teachers, especially teachers of English, practice AR to adjust and 
fine-tune teaching activities to improve the effectiveness and quality of English teaching-
learning to meet the increasingly high demands of society.
Keywords: Action research, English teaching-learning, to adjust, to fine-tune, 
teaching activities, professional development, teaching effectiveness.
* Phó Giám đốc Trung tâm Khảo thí, Trưởng nhóm Ngôn ngữ 
Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
1. Giới thiệu 
Kurt Lewin, giáo sư tại Massachusetts 
Institute of Technology Hoa Kỳ, đã đặt ra 
thuật ngữ “Action research” (nghiên cứu 
hành động) vào năm 1944. Năm 1946, 
trong báo cáo của mình, ông mô tả NCHĐ 
là nghiên cứu so sánh về các điều kiện và 
hiệu quả của các hình thức xã hội hành 
động và nghiên cứu dẫn tới hành động xã 
hội sử dụng xoắn ốc các bước, mỗi bước 
đều bao gồm một vòng tròn kế hoạch, 
hành động và tìm hiểu thực tế về kết 
quả của hành động. Trong quá trình phát 
triển NCHĐ, những người khác nhau đã 
hiểu NCHĐ theo những cách khác nhau, 
nhưng về cơ bản, vẫn đi theo các ý tưởng 
của Kurt Lewin. Ông có công sáng lập và 
thúc đẩy phương pháp NCHĐ và được 
giới nghiên cứu ghi nhận, tôn vinh là 
người đi tiên phong trong NCHĐ. 
2. Định nghĩa nghiên cứu hành động 
Sau Kurt Lewin, có rất nhiều định 
nghĩa về NCHĐ được các học giả trong 
lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy ngôn 
ngữ đưa ra. Elliot (1991) định nghĩa 
NCHĐ là: “một phương pháp nghiên cứu 
các tình huống trong lớp học để nâng 
cao chất lượng hoạt động dạy và học”. 
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
65Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
O’Brien (2001) lại cho rằng NCHĐ: “chỉ 
đơn giản là hoạt động nghiên cứu được 
tiến hành cùng lúc với hoạt động giảng 
dạy”. Dick (2002) thì cho rằng: “NCHĐ 
là quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên 
cứu (learning by doing)”. Carr & Kemmis 
(1986) định nghĩa: “NCHĐ là quá trình 
nghiên cứu tự thẩm định (self-reflective 
inquiry) được tiến hành bởi người dạy để 
nâng cao tính hợp lý và chính đáng của 
những phương pháp hay tình huống sư 
phạm mà mình gặp phải trong hoạt động 
giảng dạy”. Còn người viết bài này xin 
định nghĩa như sau: 
Nghiên cứu hành động là phương 
pháp người dạy vừa dạy vừa học để kịp 
thời tinh chỉnh các hoạt động sư phạm 
của chính mình nhằm đạt mục tiêu của 
từng giờ, từng bài và của toàn khóa học.
3. Mục đích của nghiên cứu hành động
Có thể nêu ra một số mục đích NCHĐ 
như sau:
- Giúp người dạy nhận thấy họ và 
người học của họ thực sự làm gì, thay vì 
những gì họ nghĩ họ sẽ làm;
- Người dạy nhận phản hồi về sự 
thành công hay thất bại của những gì họ 
đang làm;
- Giúp người dạy thích nghi với việc 
giảng dạy của mình và việc học tập của 
người học và các thói quen học tập của họ;
- Để người dạy có thể biện minh cho 
các lựa chọn giảng dạy và học tập mà họ 
thực hiện;
- Để ít phụ thuộc vào các quyết định 
của những người (ví dụ, các nhà quản lý 
giáo dục) không hiểu về nghề dạy học và 
việc giảng dạy của họ;
- Đảm bảo rằng người dạy không mệt 
mỏi, không chán ngán với việc giảng dạy, 
trái lại, làm cho họ đam mê hơn, sáng tạo 
hơn, miệt mài hơn với công việc, với nghề 
và với đời.
4. Lý thuyết và bối cảnh nghiên 
cứu hành động 
Về cơ bản, NCHĐ được dựa trên một 
mô hình nghiên cứu định tính, bao gồm 
việc thu thập và phân tích dữ liệu liên 
quan đến sự phát triển chuyên môn. Nó tập 
trung vào các hoạt động chuyên môn cá 
nhân và nhóm nhỏ để đạt được sự rõ ràng 
và sự hiểu biết sâu sắc hơn về một vấn đề. 
NCHĐ giải quyết vấn đề theo nghĩa cố 
gắng tìm ra điều gì là sai, nghiên cứu về 
người học, làm thế nào để cải thiện các 
chiến lược giảng dạy, để nâng cao kỹ năng 
của họ. Vì vậy, Stringer (2007) cho rằng 
“NCHĐ tìm kiếm các thông tin ban đầu để 
làm rõ vấn đề được điều tra và để bộc lộ 
cách người dạy mô tả kinh nghiệm thực tế 
về những vấn đề ảnh hưởng đến họ”.
Crookes (1993) cho rằng “Người dạy 
thường có kiến thức nền và kinh nghiệm 
trong quá trình nghiên cứu, nên họ có thể 
đưa ra những quan điểm độc đáo về sự 
năng động của việc dạy và học. Ngoài ra, 
người dạy có thể tự tin rằng các kết quả 
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu không 
liên quan đầy đủ hoặc không thể áp dụng 
cho các tình huống giảng dạy của riêng 
họ”. Đúng như Johnson (1992) ghi nhận 
khi thảo luận các nghiên cứu do những 
người dạy khởi xướng và thực hiện: “Nếu 
những gì còn thiếu trong nghiên cứu về 
dạy và học ngôn ngữ, thì kết quả NCHĐ 
của chính những người dạy sẽ lấp đầy lỗ 
hổng này”, vì theo như các định nghĩa 
trình bày ở trên, NCHĐ là một hình thức 
nghiên cứu do người dạy tiến hành để cải 
thiện, điều chỉnh và tinh chỉnh toàn bộ 
các hoạt động giảng dạy của mình. Đây là 
triết lý và cũng là lý thuyết của NCHĐ. 
Crookes (1993) cũng nói rằng 
“NCHĐ được thực hiện trên các câu 
hỏi và các vấn đề xuất hiện từ những 
mối quan tâm của người dạy ngay trong 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
66Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
các tình huống sư phạm của họ”. Vì thế, 
Allwright & Bailey (1991) nói: “NCHĐ 
thường được thực hiện bởi người dạy để 
giải quyết vấn đề ngay lập tức trong lớp 
học hoặc nhu cầu dạy và học”.
Giống như hầu hết các nghiên cứu, 
NCHĐ thường bắt nguồn từ câu hỏi hoặc 
các vấn đề, bao gồm thu thập dữ liệu, sau 
đó là phân tích và giải thích các dữ liệu 
đó, có thể giải quyết vấn đề và kiểm định 
lại. Tại đây, người dạy có thể trao đổi 
các kết quả với các người dạy khác, điều 
chỉnh và tinh chỉnh – xin nhấn mạnh: tinh 
chỉnh – các hoạt động giảng dạy của mình 
cho thân thiện với người học và phù hợp 
với điều kiện giảng dạy theo nghĩa “trông 
mặt người học mà dạy”. 
5. Các bước trong nghiên cứu 
hành động 
Sue Davidoff và Owen van den Berg 
(1990) đề nghị bốn bước là: kế hoạch, giảng 
dạy/hành động, quan sát và phản ánh. Dưới 
đây là chi tiết hướng dẫn cho từng bước.
Bước 1: Kế hoạch
- Xác định khu vực có vấn đề;
- Thu hẹp lại để có thể quản lý được;
- Điều tra vấn đề: khi nào nó xảy ra? 
nó ảnh hưởng đến ai? nó xảy ra ở đâu?
- Nghĩ đến các nhân tố có thể gây ra vấn 
đề. Nói chuyện với các người dạy khác và/
hoặc đọc để có thêm ý tưởng về điều này;
- Nghĩ đến một giải pháp và làm thế 
nào để thực hiện nó;
- Nghĩ đến những bằng chứng người 
dạy thu thập để quyết định xem hành động 
của người dạy có thành công hay không. 
Làm thế nào để thu thập bằng chứng? 
Người dạy sẽ phân tích nó như thế nào?
Bước 2: Dạy/hành động 
Thực hiện giải pháp của người dạy 
đối với bài; từng bình diện ngôn ngữ: ngữ 
âm, ngữ pháp, từ vựng; và từng kỹ năng 
ngôn ngữ. 
Bước 3: Quan sát
Thu thập bằng chứng mà GV sẽ phân 
tích để quyết định xem giải pháp của mình 
có thành công hay không.
Bước 4: Phản chiếu
Phân tích bằng chứng người dạy đã thu 
thập. Vấn đề đã được giải quyết chưa? Nếu 
không, bước thử tiếp theo là gì? Nếu có, người 
dạy sẽ giải quyết vấn đề bây giờ là gì?
Trong giai đoạn này có rất nhiều quan 
sát đòi hỏi người dạy phải có tư duy khoa 
học và sáng tạo. Ví dụ, câu hỏi nghiên 
cứu hay vấn đề của người dạy đến từ đâu. 
Sau đây chúng tôi thử đưa ra các gợi ý:
- Một vấn đề hay khó khăn mà người 
dạy hoặc người học đang gặp phải. Ví dụ, 
người dạy có thể nhận thấy rằng chỉ có một 
vài người học tham gia nhóm. Trước khi tìm 
kiếm giải pháp, hãy điều tra sự cố. Người học 
có biết cách đưa ra và ủng hộ ý tưởng của 
mình, không đồng ý với người khác, đặt câu 
hỏi, v.v. bằng ngôn ngữ mà họ phải sử dụng 
trong các hoạt động nhóm không? Người 
học có biết rằng họ nên có những vai trò 
khác nhau trong các nhóm? Các hoạt động 
của nhóm thường cần một người hướng dẫn, 
một người ghi chép, một phóng viên và một 
người đo thời gian. Các hoạt động có phù 
hợp với việc làm theo nhóm hay liệu sinh 
viên có thể tự mình làm được không? Một 
khi người dạy hiểu biết tốt hơn về vấn đề, họ 
sẽ có kế hoạch, chọn giải pháp và áp dụng.
- Quan sát quá trình giảng dạy và học 
tập trong lớp học của mình. Ví dụ: người 
dạy có thể quan sát cách mình sử dụng 
các câu hỏi trong lớp học của mình. Ghi 
lại một bài học và lắng nghe để tìm câu 
trả lời cho những câu hỏi sau:
+ Tôi hỏi người học của tôi bao nhiêu 
câu hỏi?
+ Tôi hỏi những loại câu hỏi nào? (Ai? 
Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Tại sao? Rồi sao?) 
+ Bao lâu tôi đợi người học trả lời?
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
67Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
- Một cái gì đó người dạy đã đọc. Ví 
dụ, người dạy có thể đã đọc một bài viết, 
trong đó tác giả cho rằng để cho người học 
sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ trong công việc 
nhóm nâng cao chất lượng phản hồi của 
họ. Người dạy có thể muốn thử nghiệm ý 
tưởng này và đặt ra cho mình các câu hỏi: 
Làm thế nào để người học sử dụng tiếng 
mẹ đẻ của họ trong các hoạt động nhóm 
làm ảnh hưởng đến độ dài phản hồi của 
họ? Số lượng ý tưởng được trình bày trong 
phản hồi của họ? Mức độ ngôn ngữ mà họ 
sử dụng trong phản hồi của họ?
6. Kết luận
Chúng tôi tin rằng NCHĐ là sự kết nối 
và nâng cao kinh nghiệm phát triển nghề 
nghiệp cho người dạy. Vì người dạy phát 
triển nghề nghiệp có tác động sâu sắc nhất 
khi nó gắn bó chặt chẽ với các đặc trưng 
của riêng mỗi người dạy tại một giờ học, 
một bài học, một lớp học, trong một khóa 
học cụ thể. Không NCHĐ, người dạy sẽ 
bỏ qua những thách thức, không thể hiện 
được sự đam mê, sự quan tâm mà người 
dạy dành cho người học của mình.
NCHĐ cũng giúp người dạy định 
hình lại hoạt động sư phạm để kịp thời 
phát huy điểm mạnh và khắc phục sự yếu 
kém. NCHĐ tạo ra cơ hội cho người dạy 
có những đề tài nghiên cứu bổ ích thiết 
thực để phát triển nghề nghiệp của mình. 
Chúng tôi hy vọng rằng bài viết ngắn 
này có thể trình bày được những vấn đề 
cơ bản về lý thuyết và các bước cụ thể 
tạo ra cảm hứng cho người dạy thực hiện 
NCHĐ vào công việc hàng ngày: vừa dạy 
vừa học; vừa rút kinh nghiệm vừa ứng 
dụng ngay những kinh nghiệm thành công 
vào giảng dạy. Chúng tôi cũng mong có cơ 
hội được giới thiệu và hướng dẫn phương 
pháp này cho đông đảo người dạy trong 
và ngoài trường. 
Tài liệu tham khảo
1. Allwright, Dick & Bailey. ( 1991). Focus on the Language Classroom: An 
Introduction to Classroom Research for Language Teachers. CUP.
2. Carr & Kemmis 1986. Phases in action research. Researchgate.com.
3. Dick, B. (2002) Action research: action and research  au/
resources/aandr.htm
4. Graham Crookes (1993). Action research for second language teachers--going 
beyond teacher research. University of Hawai’i.
5. John Elliot. (1991). Action Research for Educational Change. Open University 
Press, Bristol, PA.
6. Johnson. (1992). Collaborativeaction research. Journal of Teacher Education. 
Harvard Educational Review. 
7. Lewin, K. (1946). Action research and minority problems. Journal of social 
issues, 2(4), 34-46.
8. O’Brien.(2001). An Overview of the Methodological Approach of Action 
Research. University of Gothenburg, 
9. Stringer, E. T. (2007). Action research: Sage Publications. 
10. Sue Davidoff&Owen van den Berg (1990). Four steps: plan, teach / act, 
observe and reflect. Action research ESOL Nexus.
Ghi chú: Phương pháp này đã được giới thiệu tại khóa tập huấn cho giảng viên tiếng Anh 
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, tháng 5 năm 2017. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hanh_dong_tinh_chinh_cac_hoat_dong_trong_giang_da.pdf
Tài liệu liên quan