Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học tự tin về kỹ năng nói Tiếng Anh

II/ Tên sáng kiến : MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH TIỂU HỌC TỰ TIN VỀ KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH”

III/ Lĩnh vực : chuyên môn Tiếng Anh

IV/ Mục đích yêu cầu của sáng kiến

1/ Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến

Trong nhiều năm qua, Ngành giáo dục của chúng ta đã có nhiều cố gắng đổi mới phương pháp dạy học. Nhằm để bắt kịp với xu thế hội nhập toàn cầu, ngành giáo dục Việt Nam đang ngày một hội nhập cùng thế giới. Hiểu rỏ tầm quan trọng của giáo dục hiện đại là đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, tự tin và nhạy bén để bắt kịp sự phát triển của thế giới. Ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng là công cụ đắc lực cho qúa trình hội nhập. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam đã, đang không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ thông qua việc đổi mới toàn diện nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

docx16 trang | Chia sẻ: maianh78 | Lượt xem: 4453 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học tự tin về kỹ năng nói Tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c em bé sẽ không thể tự bước đi được nếu như sợ vấp ngã.hãy để cho khả năng phát âm của học sinh được “va chạm” nhiều hơn với môi trường thực tế. Hãy giao tiếp bằng tiếng Anh trong đời sống thường nhật của mình Vì “ngọc có mài thì mới sáng.” 
7. Học từ vựng một cách có hệ thống:
Xin bạn lưu ý rằng học tiếng Anh không chỉ đơn thuần là học ngữ pháp. Khi giao tiếp, bạn lựa chọn từ vựng, kết hợp chúng và tạo thành câu để biểu đạt ý kiến của mình. Khi học từ vựng, bạn hãy bố trí sổ ghi chép của mình sao cho hợp lý. Đừng liệt kê một dãy dài các từ, ngữ mới mà hãy chia sổ của bạn ra thành từng mục chẳng hạn:
VD: Chủ đề về thời tiết, thức ăn, màu sắc
8. Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan:
Khi luyện kỹ năng nghe cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện kỹ năng nghe them phần sinh động và giúp học sinh hứng thú hơn.. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học.
VD: Để kiểm tra từ vựng, giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh và nói lại. Trò chơi này phù hợp với các học sinh trung bình và yếu vì nó không đòi hỏi quá cao.
VD: Tranh người đầu bếp, học sinh nói a cook. 
Khi học sinh quen dần với hình thức nói từng từ riêng lẻ, giáo viên có thể nâng dần lên hình thức viết cao hơn để phát huy tính sáng tạo của học sinh.
 VD: Tranh người đầu bếp, học sinh nói He is a cook.
Giáo viên
1) Who is he?
2) What color is this?
3) Where is he?
Học sinh
1) He is Ted.
2) It is red.
3) Ted is in the red bed.
9. Sử dụng phương pháp thay thế bắt buộc:
Giáo viên luôn nhắc nhở học sinh các từ này đồng âm nhưng khác nghĩa, học sinh phải chú ý âm cuối nếu không khi nói người nghe dễ bị nhầm lẫn. .
VD: five, fine, find 
Ở mỗi bài tôi luôn dành mội vài phút để khắc sâu từ để sau này các em Học sinh có thể tự học.
VD: dạy từ green
GV: các em từ này(green) được phát âm như thế nào?
HS: [gri:n]
GV: Vậy ee trong từ green được phát âm là?
HS: phát âm [i:]
Khi các học sinh trả lời nắm được các nguyên tắc trên thì các em nhớ rất lâu và tiết học sẽ diễn ra một cách tự nhiên, nhẹ nhàng các Học sinh sẽ cảm thấy rất thoải mái, phấn khởi. Từ đó mổi gặp từ tương tự như thế thì các em sẽ biết phát âm như thế nào và bên cạnh đó còn giúp các em viết đúng từ và nhớ từ lâu hơn. Tôi luôn tâm niệm rằng học một biết mười. Nếu các em nắm vững những nguyên tắc đó thì các em có tự học sau này và vốn từ vưng của học sinh sẽ tăng nhanh. Điều này giúp các em ham học hơn, giúp phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các em. Các em sẽ thấy việc học là niềm vui không phải bị ép buộc, Cũng giống như ví dụ tôi vừa nêu trên khi dạy những từ khác tôi cũng áp dụng phương pháp tương tự
VD Một số ví dụ khác
Từ Phát âm
white, nine, ride i ai
Green, tree, meet ee i:
Clean, bean, eat ea i:
Chair, pair, hair air e ờ (e ờ tiếng Việt)
Cake, date, late a ei (ây tiếng Việt)
birthday, thirsty, bird ir	 ơ (ơ tiếng Việt)
10. Phương pháp dặn dò, củng cố:
Ngoài ra ở mỗi bài tôi đều cũng cố bài lại để Học sinh hiểu rỏ hơn và ôn lại những gì đã học một lần nữa. 
VD: Khi học bài về thời tiết.
GV: Khi muốn hỏi về thời tiết các em hỏi như thế nào?
HS1: How’s the weather?
GV: Khi được các bạn mình hỏi như thế thì các em phải trả lời thế nào?
HS2: It’s sunny.
Bước dặn dò cũng không kém phần quan trọng vì ở lớp các em chỉ học một khoảng thời gian ngắn thôi, các em phải luyện tâp thêm ở bất kỳ nơi đâu có thể.
11. Phương pháp động viên khen thưởng
Tuyên dương trước lớp các em viết có tiến bộ, bên cạnh đó cũng tuyên dương các em giúp đở bạn cùng tiến bộ. Khi học sinh đóng góp ý kiến và phát biểu thì sẽ đựơc điểm chuyên cần vào một sổ điểm riêng phần nào giúp các em hưng phấn hơn khi phát biểu.
V- Hiệu quả đạt được: 
Từ khi áp dụng các biện pháp trên đây những năm học trước đây và đầu năm học này học sinh yếu kém của lớp tôi không còn nữa. Các học sinh luôn có tiến bộ năm sau cao hơn năm trước
 VI. Mức độ ảnh hưởng: 
Năm học
2013-2014
Tổng số
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
Khối 3
115
80
69.57
25
21.74
6
5.22
4
3.47
Khối 5
112
75
66.96
22
19.65
14
12.50
1
0.89
Năm học
2015-2016
Tổng số
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
Khối 3
128
85
66.41
32
25.00
6
4.69
5
3.90
Khối 5
111
80
72,1
21
18,9
8
7,2
2
1,8
Năm học
2016-2017
Tổng số
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
Khối 3
152
124
81.58
23
15.13
4
2.63
1
0.66
Khối 5
77
45
58,4
12
15,6
20
26
0
0
Phạm vi tác dụng:
Đối với học sinh: các em thấy hứng thú , học một cách tự giác không gò bó, các em học sinh yếu kém thiểu năng, lười biếng có tiến bộ rỏ rệt, tất cả các em học sinh rất hào hứng khi phát biểu. 
Đối với giáo viên: do nắm được tình hình học tập của học sinh ngay từ đầu năm nên giáo viên có thể vận dụng được phương pháp phù hợp từng đối tượng học sinh dễ dàng. Bên cạnh đó do có kế hoạch tiếp cận, gần gũi với học sinh ngay từ đầu nên giáo viên biết rất rỏ trình độ, học lực của từng học sinh từ đó giáo viên vận dụng được phương pháp phù hợp từng đối tượng học sinh dễ dàng 
Đối với đồng nghiệp và tổ chuyên môn: khi họp tổ chuyên môn tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình để cho các đồng nghiệp áp dụng ở lớp mình, kết quả là kỹ năng nói của học sinh có tiến triển một cách rõ rệt.
Đối với trường và ngành: Được sư hổ trợ rất nhiệt tình của BGH trường và của nghành, bản thân tôi cảm thấy rất phân khởi để thực hiện những điều trăn trở của mình. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra những biện pháp giúp học sinh hoàn thiện kỹ năng Nói.
Nguyên nhân thành công và tồn tại: 
2.5.1 Ưu điểm:
Do giáo viên có kế hoạch ngay từ đầu năm học, có sự trao đổi với GVCN để nắm được tình hình học tập của các học sinh, do có trao đổi với phụ huynh, nhắc nhở, bố trí thời gian kiểm tra, quan sát, hướng dẩn phương pháp học cho con em mình. việc rèn kỹ năng Nói ở nhà để cũng cố lại kiến thức trên lớp.
Xây dựng một lớp học đoàn kết, gắn bó, hổ trợ, giúp đở lẩn nhau cùng tiến bộ
Linh hoạt sử dụng, kết hợp nhiều hình thức học tập cá nhân, tổ nhóm, cá nhân, tổ nhóm thi đua học tập. Tận dụng triệt để đồ dùng dạy học, sáng tạo thêm đồ một số đồ dùng day học, hình ảnh trực quan sinh động phù hợp với từng đối tượng học sinh để thu hút sự chú ý của các em và tuần khi có tiết học tôi thường kiểm tra bài củ kết hợp với một vài câu tự luận từ dễ đến khó để tất cả các học sinh đều có thể làm được bài đúng theo khả năng mình, làm như thế một mặt để nắm tình hình học tập của học sinh, mặt khác để thay đổi phương pháp dạy hợp lý hơn.
Giáo viên luôn ân cần gần gủi với tất cả các học sinh và phụ huynh, phải có tác phong chuẩn mực. Tôi luôn nhắc nhở các em phải tự học không ỷ lại vào người khác, không quay cóp trong thi cử. tích cực học tập sáng tạo xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. Đồng thời luôn quán triệt tinh thần” trường học thân thiện, học sinh tích cực.
 2.5.2 Tồn tại:
Đây là môn học tự chọn nên phu huynh học sinh chưa quan tâm lắm. Học sinh còn chưa đi học đầy đủ. Mổi tuần giáo viên chỉ tiếp xúc với các em có 2 tiết nên việc quản lí các em còn hạn chế. Đối với học sinh yếu, học sinh thiểu năng phải mất nhiều thời gian để hướng dẫn và trình độ học sinh không đồng đều nên đôi khi cũng gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó việc họp tổ chuyên môn cũng rất hạn chế 1 lần/ tháng, cho nên khi gặp một vấn đề thì không thể thường xuyên cần trao đổi với đồng nghiệp được. Do thiếu phòng học nên nhà trưòng không thể bố trí phòng học Anh Văn riêng biệt để trưng bài những tranh ảnh tạo một môi trường anh ngữ cho các em. 
2.6	 Bài học kinh nghiệm:
Cần phải tìm hiểu và phân loại học sinh một cách kỹ càng để có phương pháp dạy học từng đối tượng, phát hiện kịp thời những học sinh có dấu hiệu đi xuống để kịp thời ngăn chăn. Phải nắm được tâm lý của học sinh, luôn quan tâm, giúp đở tạo lòng tin và tâm lí thoải mái cho học sinh, Thành lập nhóm học tập để các em có thể học hỏi giúp đở lẫn nhau. Phải có tình thương, lương tâm và trách nhiệm, luôn kiên trì nhẩn nại, Luôn đổi mới theo hướng tích cực để phát huy hơn nữa tính chủ động sáng tạo của học sinh, luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức như: sưu tầm tranh ảnh, Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo. Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng. Bên cạnh đó có sự hổ trợ từ phụ huynh. Luôn nhắc nhở học sinh không ỷ lại vào người khác. Khi học sinh vắng, nghỉ học thì giáo viên phải giảng bài lại hoặc nhờ các em học sinh giỏi hướng dẫn lại cho bạn. Phối hợp chặt chẻ với BGH và tổ chuyên môn lên kế hoạch phụ đạo.
VII- Kết luận 
Cả xã hội nói chung và ngành Giáo Dục nói riêng luôn “coi giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Trong việc đổi mới giáo dục về dạy học Tiếng Anh đòi hỏi người Học sinh phải tích cực, phải đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, phải giao tiếp được với các nước trên thế giới, coi ngoại ngữ là thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ những khó khăn mà tôi gặp phải trong quá trình giảng dạy, tôi đã mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp, và với BGH trường để tìm cách phắc phục. Trên đây, là một vài kinh nghiệm tôi đã áp dụng và thấy có sự thành công nhất định. Dạy học là một nghề sáng tạo. Người giáo viên khi đứng trên bục giảng luôn gặp những vấn đề và những tình huống thật phong phú, đa dạng nó dòi hỏi phải có cách xử lý, giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó nó đòi hỏi giáo viên phải có chuyên môn vững vàng, lòng yêu nghề, mến trẻ, phải có tâm với nghề mới đảm bảo sự thành công trọn vẹn. Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các thế hệ tương lai sẽ Nói tiếng Anh tốt hơn các thế hệ trước, chớ không phải học suốt 10 năm trời mà chẳng giao tiếp được Tiếng Anh như báo tuổi trẻ đã đưa tin. Các em sẽ xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến

File đính kèm:

  • docxgiup_hoc_sinh_tu_tin_ve_noi_tieng_anh_1682_2073894.docx
Tài liệu liên quan