Hàm ý văn hóa của các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng hán hiện đại

Các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán ngoài chức năng định danh, chúng còn mang hàm ý văn

hóa vô cùng sâu sắc. Qua việc phân tích đặc điểm định danh của từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng

Hán, chúng tôi nhận thấy quan điểm thẩm mĩ, ước vọng của người Trung Quốc, đặc biệt là qua các

tên gọi thức ăn được định danh theo lối gián tiếp. Ngoài ra, các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán

còn được sử dụng để liên hệ với các phương diện khác nhau của đời sống thông qua các thành

ngữ, tục ngữ, yết hậu ngữ., đặc biệt là các nét nghĩa thể hiện tính cách, phẩm chất, trạng thái tâm

lí của con người. Những điều này đã khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa ẩm thực và cuộc sống

thông qua ngôn ngữ.

pdf5 trang | Chia sẻ: phuthai499 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hàm ý văn hóa của các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng hán hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự cát tường, thành đạt. Trong những ngày vui như 
ngày cưới, ngày tết, người Trung Quốc thường sính 
dùng màu đỏ. Đó là một trong những lí do vì sao các 
thức ăn của Trung Quốc được chế biến với các gam 
màu tươi sáng, màu cơ bản như:红hồng (đỏ),紫
tử (tím), 黄hoàng (vàng),金kim (vàng kim). Ví dụ, từ 
chỉ màu trong các món: 红熬鸠子hồng ngao cưu tử 
(chim bồ câu om, thành phẩm có màu đỏ sẫm), 三色
团员粉tam sắc đoàn viên phấn (miến ba màu),十色
花花糖thập sắc hoa hoa đường (bánh bột đường hoa 
mười màu).... Ngược lại, các màu 白bạch (trắng), 黑
hắc (đen), 绿lục (xanh lục) thì được sử dụng ít hơn, 
chủ yếu để phân biệt các loại nguyên liệu, ví dụ, 大白
豆đại bạch đậu (đậu trắng),大黑豆đại hắc đậu (đậu 
đen),大青豆đại thanh đậu (đậu xanh). Điều này 
không chỉ thể hiện kĩ thuật chế biến cầu kì của đầu 
bếp, mà còn là một sự thưởng thức cái đẹp, thể hiện 
tâm lí hướng tới sự hoàn mĩ của người dân Trung Quốc.
48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Nhìn chung, ẩm thực là cả một nghệ thuật, nó thể 
hiện trình độ giáo dục, năng lực thẩm mỹ, tâm tư 
tình cảm của con người, cao hơn là thể hiện nét đẹp 
văn hóa. Thông qua các nghĩa mở rộng của từ ngữ 
ẩm thực, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự đề cao giá 
trị tinh thần trong ăn uống, nó là một trong những 
nhân tố quan trọng nhất để nâng giá trị của bữa ăn 
ngày thường lên tầm cao mới, thể hiện giá trị nhân 
văn vô cùng sâu sắc trong đời sống xã hội, nhất là khi 
xã hội loài người đã từ no đủ vươn tới khá giả, cuộc 
sống ngoài nhu cầu về vật chất còn cần đến giá trị 
tinh thần thì giá trị nhân văn đó càng được đề cao.
3. HÀM Ý VĂN HÓA QUA Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG 
CỦA TỪ NGỮ CHỈ THỨC ĂN TRUNG QUỐC
3.1.Từ ngữ chỉ thức ăn thể hiện tính cách, phẩm chất 
con người
Qua thực tế khảo sát về ý nghĩa liên tưởng của từ 
ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán, chúng tôi nhận thấy 
rằng, các từ ngữ này thường dùng để liên tưởng tới 
tính cách, phẩm chất con người. Các từ ngữ chỉ thức 
ăn được sử dụng để liên tưởng đến mặt nội tại của 
con người dựa trên thuộc tính, giá trị của thức ăn 
hoặc đặc điểm ngoại hình của nguyên liệu chế biến 
thức ăn.
Một là, liên tưởng dựa trên sự tương đồng về thuộc 
tính, giá trị thức ăn với tính cách, thái độ, khả năng 
của con người. Chúng tôi đã thống kê được 18 từ 
ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán được sử dụng để ví 
với mặt nội tại của con người như tính cách, thái độ, 
khả năng, thông qua đặc điểm của chúng, ví dụ:
豆腐đậu phụ, 苦瓜khổ qua (mướp đắng), 辣椒lạt tiêu 
(ớt). Điều thú vị là trong tiếng Hán, 豆腐đậu phụ 
xuất hiện khá nhiều trong các thành ngữ, tục ngữ để 
ví với đặc điểm con người. 豆腐đậu phụ có đặc điểm 
là trắng, mềm, dễ vỡ, vì vậy được liên tưởng với người 
mềm yếu, không chịu được công kích, không có năng 
lực, chẳng hạn: 刀子嘴,豆腐心đao tử chủy, đậu phụ 
tâm (miệng dao, lòng đậu phụ – khẩu xà tâm phật), 嫩
豆腐——不堪一击nôn đậu phụ – bất kham nhất kích 
(đậu phụ tươi – không chịu được va vấp), 豆腐心đậu 
phụ tâm (trái tim mềm yếu). Đặc biệt, người Trung 
Quốc có cách nói 吃豆腐ngật đậu phụ (ăn đậu phụ) 
để ví với việc trêu ghẹo phụ nữ. Giải thích cho cách 
nói này, phải kể đến câu chuyện liên quan đến bà chủ 
quán đậu phụ có làn da mềm mại, nhan sắc ưa nhìn 
do thường xuyên ăn đậu phụ. Để thu hút khách hàng, 
có lúc bà chủ quán dùng một số chiêu trò đưa đẩy, dụ 
dỗ khách hàng. Nhiều khách là đàn ông đến “động 
chân động tay” với bà chủ nhưng đều mượn cớ là để 
“ăn đậu phụ” vì sợ điều tiếng thiên hạ. Dần dần, 吃
豆腐 ngật đậu phụ (ăn đậu phụ) được người Trung 
Quốc sử dụng với nghĩa bóng là “trên ghẹo phụ nữ”. 
Hai là, liên tưởng dựa trên sự tương đồng giữa đặc 
điểm bên ngoài của thức ăn với thuộc tính con người. 
Trong tiếng Hán, có 18 cách nói với mô hình “từ chỉ 
nguyên liệu + động từ chỉ phương thức chế biến + từ chỉ 
nguyên liệu” được dùng để biểu trưng cho đặc điểm 
con người với chuẩn so sánh là hình thức bên ngoài 
của nguyên liệu. Chẳng hạn 大虾炒鸡爪儿 đại hà sao 
kê trảo (tôm sú xào chân gà), do đặc thù các nguyên 
liệu sau khi chế biến đều bị cuộn cong lại, nên tạo sự 
liên tưởng đến dáng vẻ khúm núm luồn cúi của con 
người; 豆芽拌粉条đậu nha bạn phấn điều (giá đỗ trộn 
mì sợi), hai loại nguyên liệu đều có hình sợi, trộn vào 
nhau có sự liên kết, móc nối lẫn nhau, do đó được sử 
dụng để ví với sự cấu kết.
Đặc biệt, trong số 18 đơn vị ngôn ngữ nói trên, có tới 
13 đơn vị căn cứ vào hiện tượng hài âm đặc thù để 
biểu thị các ý nghĩa ví von. Có 6 đơn vị dựa trên hiện 
tượng hài âm gián tiếp (tác giả tạm gọi), tức là dựa 
trên sự hài âm của từ chỉ màu sắc không xuất hiện 
trực tiếp trong phát ngôn. Ví dụ: 小葱拌豆腐 tiểu 
song bạn đậu phụ (hành trộn đậu phụ), trong đó 小葱
tiểu song (hành) màu xanh, 豆腐 đậu phụ màu trắng, 
có cách lí giải trung gian là 一青二白 nhất thanh nhị 
bạch (một xanh hai trắng) với 青thanh (xanh), đồng 
nghĩa với 清 thanh (sạch sẽ), ý nghĩa biểu trưng của 
cách nói này là 一清二白 nhất thanh nhị bạch (trong 
trắng, thuần khiết).... Các màu sắc nguyên liệu được 
sử dụng trong cách nói này thường thành từng cặp, 
tiêu biểu là: 青thanh (xanh), 白bạch (trắng) và 红hồng 
(đỏ), 白bạch (trắng), trong đó 青thanh (xanh) là đại 
diện cho màu sắc của 葱song (hành),白菜叶子bạch 
thái diệp tử (lá rau cải),韭菜 cửu thái (rau hẹ) (trong 
đó chủ yếu là 葱song (hành)); 红hồng (đỏ) là đại diện 
cho màu sắc của 胡萝卜hồ la bốc (cà rốt); 白bạch 
(trắng) là đại diện cho màu sắc của 豆腐đậu phụ, 白
菜 bạch thái (bắp cải) (trong đó chủ yếu là 豆腐 đậu 
phụ). Hai cặp màu tương ứng với hai từ chỉ màu có 
sự hài âm với các từ biểu thị ý nghĩa trừu tượng, 青白
thanh bạch (xanh trắng) hài âm với 清白 thanh bạch 
(trong sạch, thuần khiết), 红白hồng bạch (đỏ trắng) 
49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
là từ đồng âm với 红白hồng bạch (ví với sự đúng sai). 
Ngoài ra, 青thanh trong các đơn vị trên còn được sử 
dụng dựa trên sự hài âm với亲thân. 
Trong mô hình cấu trúc nêu trên, có 7 đơn vị tên thức 
ăn dựa vào hiện tượng hài âm của từ chỉ nguyên liệu 
để liên tưởng đến thuộc tính của con người, chẳng 
hạn 韭菜炖蛋—冒充(葱)cửu thái độn đản – mạo 
sung (song) (rau hẹ hầm trứng – giả hành, đồng âm 
với giả mạo)..., hoặc sự hài âm của động từ, của từ 
chỉ tính chất như: 冰糖拌黄瓜—甘(干)脆 băng 
đường bạn hoàng qua – cam (can) xuê (đường phèn 
trộn dưa chuột có vị 甘脆 cam xuê (ngọt, giòn), đồng 
âm với 干脆can xuê (dứt khoát)....
Có thể thấy rằng, trong các cách sử dụng ngôn ngữ 
của người Trung Quốc, hiện tượng hài âm là một 
phương thức rất độc đáo. Đó là cách chơi chữ lí thú, 
tạo ra những hiện tượng ngôn ngữ đầy hàm súc, với 
những ý tứ sâu xa, kín đáo. 
Đồng thời, việc căn cứ vào cách kết hợp nguyên 
liệu để liên tưởng đến thuộc tính của con người còn 
thể hiện sự sáng tạo trong phương thức tư duy trừu 
tượng. Người ta đã nhận biết được những đặc trưng 
nổi trội của các thức ăn trong quá trình chế biến và 
liên hệ với những sự vật trừu tượng trong cuộc sống. 
Đó là một lối tư duy hình tượng vô cùng sinh động. 
Những thức ăn được sử dụng làm chuẩn so sánh, biểu 
trưng cho đặc điểm con người là những thức ăn gần 
gũi với đời sống hàng ngày của người Trung Quốc, 
điển hình đậu phụ, rau.... Điều này có liên quan mật 
thiết đến đặc điểm tự nhiên và xã hội, tạo ra các sản 
vật tiêu biểu cho nền văn hóa nông nghiệp Trung Hoa.
3.2. Tên gọi thức ăn và cách kết hợp nguyên liệu thể 
hiện trạng thái tâm lí con người
Các từ ngữ chỉ thức ăn đã được sử dụng để liên tưởng 
đến các trạng thái tâm lí khác nhau của con người 
dựa trên đặc điểm mùi vị của chúng, được chia thành 
các xu hướng tích cực và xu hướng tiêu cực, cụ thể là:
Các loại thức ăn có vị đắng bao gồm bồ hòn, 胆 đản 
(mật),苦瓜 khổ qua (mướp đắng), 莲子 liên tử (hạt 
sen)biểu trưng cho sự thua thiệt, đau khổ. Ví dụ : 成
熟的莲子—心里苦 thành thục đích liên tử (hạt sen đã 
già – trong lòng đau khổ).
Các loại thức ăn có vị ngọt bao gồm đường, mật, 糖 
đường,蜜 mật,荔枝 lệ chi (vải) biểu trưng cho 
hạnh phúc, cũng có khi dùng để chỉ lời nói khéo. Ví 
dụ: 冰糖蒸荔枝—甜头了băng đường chưng lệ chi 
(đường phèn hấp vải – ngọt ngào).
Các loại thức ăn có vị cay bao gồm gừng, ớt, 胡椒 hồ 
tiêu (hạt tiêu),姜汁 khương trấp (nước gừng),辣
椒 lạt tiêu (ớt) biểu trưng cho nhiệt tình, cũng có khi 
chỉ sự ghê gớm, cay nghiệt. Ví dụ: 菜园里的辣椒—越
老越厉害 thái viên lí đích lạt tiêu (ớt trong vườn rau – 
càng già càng ghê gớm).
Các loại thức ăn có vị chua bao gồm dấm, 醋thố (dấm) 
biểu trưng cho cảm giác xót xa, đau khổ. Ví dụ: 黄连
拌醋 hoàng liên bạn thố (hoàng liên trộn dấm – đau 
đớn chua xót). 
Trên cơ sở những nghĩa biểu trưng nêu trên, khi hai 
từ chỉ loại nguyên liệu có cùng một vị tích cực hoặc 
tiêu cực xuất hiện với từ chỉ phương thức chế biến 
thì chúng biểu thị mức độ cao của trạng thái tâm lí. 
Chẳng hạn: 白糖拌蜜糖—甜上加甜 bạch đường bạn 
mật đường – điềm thượng gia điềm (đường trắng trộn 
đường mật – ngọt lại càng ngọt), 苦胆拌黄连—苦
上加苦 khổ đản bạn hoàng liên – khổ thượng gia khổ 
(mật đắng trộn hoàng liên – đã đắng lại càng đắng/
đã khổ lại càng khổ)... Trong tiếng Hán khổ là đắng, 
cam là ngọt. Nghĩa biểu trưng của hai từ này là cảm 
nhận về khổ và sướng trong đời sống con người. 
Thành ngữ 苦尽甘来 khổ tận cam lai (hết khổ đến 
sướng) được sử dụng trong tiếng Hán và tiếng Việt, 
nghĩa biểu trưng không thay đổi. 
Ngoài ra, trạng thái tâm lí còn thể hiện thông qua các 
kết cấu chỉ hoạt động thưởng thức món ăn, đồ uống. 
Cảm nhận khi thưởng thức những món này được liên 
hệ với thời điểm thưởng thức và đặc tính của thức 
ăn đồ uống. Chẳng hạn, 三九天喝姜汤—热心肠 tam 
cửu thiên hát khương thang – nhiệt tâm trường (tam 
cửu thiên tức là giữa mùa đông) uống canh gừng, ví 
với sự nhiệt tình), 三九天吃冰棍—寒了心 tam cửu 
thiên ngật băng côn – hàn liễu tâm (những ngày tam 
cửu ăn kem – lòng lạnh giá) (Tam cửu thiên ở đây 
là chỉ khoảng thời gian từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 
27 sau tiết đông chí, là thời điểm lạnh nhất trong mỗi 
mùa đông. Ngày thứ nhất đến ngày thứ 9 sau đông 
chí gọi là nhất cửu thiên. Tiếp đó, ngày thứ 10 đến 
ngày thứ 18 gọi là nhị cửu thiên).

File đính kèm:

  • pdf44_7331_2137229.pdf
Tài liệu liên quan