Các khó khăn trong dịch và phương hướng khắc phục
Việc phân loại các khó khăn trong dịch có ý nghĩa to lớn về mặt
phương pháp luận, đồng thời cũng tạo ra được ý thức về chúng để từ đó
đề ra, xây dựng được một chiến lược và sách lược nhằm giúp cho công
việc dịch thuật và đào tạo phiên dịch, biên dịch ngày càng tốt hơn.
Chúng tôi chia ra hai loại khó khăn lớn là khó khăn chung và khó
khăn riêng. Khó khăn chung là khó khăn xảy ra đối với toàn bộ quá trình
dịch, cho bất cứ th ứ tiếng nào và ở tất cả các loại hình dịch. Những khó
khăn riêng được giới hạn bởi một khía cạnh nào đó của dịch như đối với
từng loại hình dịch, từng loại hình văn bản (chính trị-xã hội, văn họcnghệ thuật, khoa học-kỹ thuật ), từng cặp tiếng cụ thể (Hán-Việt, AnhViệt, Việt-Nga, Việt-Nhật ) cũng như từng góc độ đơn vị chức năng
ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn: dịch danh từ, động từ, liên từ, giới từ,
chủ ngữ, định ngữ, câu đơn, câu phức
h chưng, bánh dầy, bánh giò, bánh khúc, bánh cốm… Các phong tục tập quán về cưới xin (dạm ngõ, ăn hỏi, thách cưới, nộp cheo…), tôn giáo, tín ngưỡng (đình, chùa, miếu, am, phủ, điện thờ, bàn thờ, ngai, bài vị, mẫu thoải, chúa thượng ngàn…) rất phổ biến đối với người Việt nhưng lại vô cùng xa lạ đối với người phương Tây. Khi phải dịch những từ ngữ phản ánh những nét văn hoá đó sang các thứ tiếng nước ngoài, chúng ta gặp phải không ít khó khăn, khó khăn lớn đến mức tưởng chừng ta phải chịu bó tay, bởi vì trong ngôn ngữ đích không có những nét văn hoá như thế cho nên không có những từ ngữ tương ứng. c. Loại khó khăn sinh ra từ sự khác biệt về phương thức tư duy của từng dân tộc, trong đó nổi bật nhất là phương thức chia cắt hiện thực của từng cộng đồng ngôn ngữ. Chẳng hạn như Bê-la-ép, cùng một hiện thực là “thời điểm 2 giờ sau 12 giờ đêm” tiếng Nga nói là (два часа ночи) (2 giờ đêm) tiếng Pháp diễn đạt là “deux heures du matin” (2 giờ sáng). Đối với tiếng Việt, tiếng Hung và một số thứ tiếng khác thì cả hai cách diễn đạt đều được sử dụng ngang nhau. Một số thí dụ khác: tiếng Việt gọi cái xe đạp là “xe đạp” là gọi theo chức năng hoạt động của sự vật, trong khi tiếng Anh, Pháp gọi là “bicycle”, “bicyclette” – “cái hai vòng tròn” tức là gọi theo hình dáng cấu tạo sự vật, còn tiếng Hán lại gọi theo trạng thái của sự vật*. Như vậy, ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu và tiêu biểu nhất để biểu thị phương thức tư duy của từng thứ tiếng. Vậy người Việt tư duy thế nào? Thông qua sự thể hiện trên tiếng Việt chúng ta có thể nhận thấy những điểm nổi bật sau đây: - Người Việt ưa tư duy theo kiểu cụ thể, hình tượng: Lấy cái cụ thể hình tượng để biểu thị cái khái quát trừu tượng. Điều này có thể thấy rõ nhất trong lĩnh vực cấu tạo từ mới. Tiếng Việt có hai loại từ ghép là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ. Cả hai kiểu cấu tạo từ này đều có một tiểu loại gọi là từ ghép chuyển nghĩa, trong đó các từ tố mang nghĩa đen, nghĩa cụ thể, khi kết hợp thành từ ghép thì chúng lại có nghĩa khái quát trừu tượng. Thí dụ: đất nước, đường lối, cởi mở, hàn gắn, căng thẳng, tô hồng, bôi nhọ, to gan… Các tính từ của tiếng Việt tạo ra nhiều sắc thái mức độ chi tiết, tinh tế của màu sắc hay tính chất, chẳng hạn “đỏ rực, đỏ tía, đỏ au, đỏ tươi, đỏ hỏn…; trắng toát, trắng tinh, trắng đục, trắng hếu; mới tinh, mới toanh, mới cứng…” Tuy nhiên khi cần biểu thị khái quát thì tiếng Việt cũng có những từ ngữ ít khi hoặc không bao giờ tìm thấy trong các thứ tiếng khác. Thí dụ: Tiếng Việt có một mầu xanh chung chung, sau đó mới sắc thái hoá mầu xanh (xanh thẳm, xanh rợn, xanh um, xanh biếc, xanh lá mạ, xanh cổ vịt, xanh lam, xanh da trời, xanh lá cây…). Trong khi đó đa số các tiếng Ấn-Âu chỉ có 2-3 màu xanh lá cây (Anh) Green, (Pháp) Vert, Verte;xanh da trời (Anh) Blue, (Pháp) Bleu, Bleue, (Nga) Синий. Gần đây trong tiếng Việt lại tiếp tục xuất hiện nhiều từ mới mang ý nghĩa khái quát như thế, ví dụ chất đốt, nước chấm… - Người Việt lấy hình dáng, đặc điểm bên ngoài để gọi tên (định danh) các sự vật sự việc tạo nên ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa biểu vật) của từ. Chẳng hạn người Việt gọi củ là “Phần thân hay rễ cây phát triển lớn ra và chứa chất dinh dưỡng”**. Củ có thể ở bên trên (củ su hào, củ ấu…), hoặc vùi sâu dưới mặt đất (củ khoai lang, củ gừng, củ chuối,…). Các tổ hợp như “tóc rễ tre, râu quai nón, chân bàn cuốc, mắt ốc nhồi, khăn mỏ quạ…” cũng phản ánh chính xác hình dáng của sự vật sự việc mà tiếng Việt gọi tên. Các động từ chuyển động của tiếng Việt có thể chia ra làm các loại chuyển động tự dời chỗ (lăn, lê, bò, toài, trườn, chạy, nhảy, đi…) và dời chỗ đối tượng (mang, vác, khuân, khiêng, lôi, kéo, đun, đẩy, cõng, địu, đội, gánh, thồ…) đều có đặc trưng về phương thức chuyển động hay dời chỗ đối tượng trong nội dung ý nghĩa của từ*** Các động từ chỉ hướng “ra, vào, lên xuống, sang, qua, đến, tới, lui, lại, về”, cũng như vậy. Ở đây hướng vận động dời chỗ của đối tượng cũng đã phản ánh rất rõ cách thức nhận thức của người Việt thể hiện ở mối tương quan về kích thước không gian, giữa điểm xuất phát và đích mà chủ thể di động hướng tới****. - Có thể nhấn mạnh thêm một đặc trưng tư duy khác của người Việt Nam, đó là lối tư duy theo hướng rất phù hợp với thực tế tồn tại khách quan. Điều này được thể hiện rất rõ ở trật tự kết hợp các từ để thành cụm từ và câu. Thí dụ trật tự của cụm C-V và các thành phần câu thường là C (chủ ngữ) trước V (vị ngữ, nhất là vị ngữ động từ) đứng sau rồi mới đến B (bổ ngữ). Trong khi đó động từ của câu tiếng Nhật và tiếng Đức thì lại thường xuyên ở cuối câu, đứng sau cả trạng ngữ và bổ ngữ. Trong cụm tính từ, tính từ của tiếng Việt bao giờ cũng đi sau danh từ để bổ sung ý nghĩa trong mối quan hệ giữa sự vật và tính chất của nó, còn trật từ các từ thành phần của cụm tính từ các tiếng Ấn-Âu lại ngược với tiếng Việt: (Anh: New house Ngôi nhà mới), (Nga: Новыий год Năm mới). Một giáo viên dạy dịch cho sinh viên năm thứ hai khoa Anh trường ĐH Hà Nội kể rằng nhiều em đã dịch tổ hợp “tay trắng” trong “ra về tay trắng” của tiếng Việt thành “white hand”. Nghĩa của tổ hợp này trong tiếng Việt là “tình trạng không có chút vốn liếng, của cải gì” (theo “Từ điển tiếng Việt” Hoàng Phê chủ biên, NXB KHXH Hà Nội, 1991). Hãy so sáng tổ hợp này với “trắng tay”, “đêm trắng”, “mất trắng”, “bỏ trắng”, “thức trắng đêm”, “trắng án”, “đồng trắng nước trong”, “trắng khăn tang”… chúng ta sẽ thấy “tay trắng” có những nét nghĩa khác hẳn (vừa có nghĩa cụ thể, vừa có nghĩa trừu tượng). Các ngôn ngữ Châu Âu, tiêu biểu là tiếng Anh, tiếng Pháp cũng dùng bàn tay để chỉ trạng thái đó như at first hand (một cách trực tiếp), at second hand (một cách gián tiếp), nhưng không dùng màu sắc như một biểu tượng một ẩn dụ như tiếng Việt mà dùng trực tiếp từ chỉ trạng thái tình trạng đó như bare (Anh), vide (Pháp) để chỉ trạng thái trống rỗng không: bare hands, vide maines chứ không nói white hand (Anh), blanche main (Pháp) như tiếng Việt. Nếu dịch trở lại các tổ hợp này sang tiếng Việt sẽ là “tay không” có nghĩa là: tay không có cầm nắm hay kèm theo một cái gì khác. Cần chú ý rằng tiếng Anh và tiếng Pháp cũng có sử dụng từ chỉ màu sắc đi kèm từ “tay” nhưng lại để miêu tả tình huống khác như “catch some one in red hand” (nghĩa là: bắt ai trong tay, túm được tay tức là bắt quả tang). Như vậy ngôn ngữ và tư duy quan hệ gián tiếp với nhau thông qua cách thức chia cắt hiện thực để gọi tên để phản ánh các sự vật, sự việc, hiện tượng, khái niệm. 2. Các phương hướng khắc phục Liệu chúng ta có thể khắc phục được các khó khăn chung như đã trình bày không? Câu trả lời theo chúng tôi không đến nỗi bi quan như một số người cực đoan lầm tưởng: Trong thực tế người ta cũng đã khắc phục được những khó khăn đó để tạo ra những bản dịch xuất sắc, đặc biệt là những tác phẩm văn học. Chúng tôi đề xuất 3 phương hướng khắc phục sau đây: a. Những khó khăn về mặt ngôn ngữ được giải quyết bằng những kết quả các công trình so sánh, đối chiếu. Người dịch có thể vận dụng những tương đồng và khác biệt – Một trong những mục đích của các công trình đối chiếu song ngữ hoặc đa ngữ để chuyển dịch từ thứ tiếng này sang thứ tiếng khác. Đối với những trường hợp khác biệt người dịch có thể lấy luôn từ ngữ trong ngôn ngữ gốc có phiên âm chú giải và với thời gian chúng sẽ trở thành từ ngữ của ngôn ngữ dịch. Các trường hợp trong tiếng Việt: bà đầm, bồi, cao bồi, xúc xích, giăm bông, phó mát, bơ, vang, vốt ca, xamôva, Xô viết, mít tinh, mô típ, tuýp, rôbốt… chính là những trường hợp như thế. Đây chính là đóng góp của người dịch trong việc tạo ra những từ ngữ tương đương trong ngôn ngữ dịch. b. Khó khăn thứ hai đặt ra cho người dịch một nhiệm vụ nặng nề là phải luôn luôn trau dồi cả tiếng mẹ đẻ lẫn tiếng nước ngoài. Người dịch giỏi phải thông thạo nhiều ngoại ngữ. Trước hết là tiếng mẻ đẻ và ngôn ngữ dịch. c. Người dịch phải luôn luôn trau dồi thêm những kiến thức toàn diện sâu rộng. Ở trường học đã được cung cấp rất nhiều nhưng chưa đủ, anh ta phải học thêm về văn hoá, văn minh của nước mình và của đất nước mà mình biết tiếng. 3. Kết luận Với quan niệm, dịch là sự chuyển đổi, chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm sự chuyển đổi này phải chính xác tức là phải có tính khoa học trong sự nhận thức nội dung của bản gốc để từ đó có thể tái tạo lại trong bản dịch. Sự chuyển đổi có thể diễn ra bằng nhiều thủ pháp khác nhau tuỳ từng người dịch thể loại của văn bản cần dịch. Xin được nhấn mạnh 3 tiêu chí của người xưa là tín, đạt, nhã. Thoả mãn được 3 yêu cầu đó, người dịch phải lao động thực sự: vừa nghiêm túc chính xác như một nhà khoa học có nhiều nghị lực, vừa phải bay bổng lãng mạn như một nhà nghệ thuật giàu óc sáng tạo. Lao động của người dịch quả là khó khăn nặng nề. Vì vậy, ở nhiều nước như: Pháp, Đức, Anh.. chỉ những ai đã tốt nghiệp một trường đại học chuyên ngành nào đó và trên cơ sở đã thông thạo ngoại ngữ cần dịch mới được đăng kí trở thành phiên dịch biên dịch. Tài liệu tham khảo 1. Nida E.A Toward a science of Translating, Lerden Brill, 1964 2. Catford J.C. a Linguistic theory of translation, London, 1965 3. Nhiều tác giả: Dịch một khoa học, một nghệ thuật, NXB KHXH, Hà Nội, 1991 4. Đỗ Hữu Châu – Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. NXB KHXH, Hà Nội, 1991 5. Nguyễn Đức Tồn – Đặc trưng tư duy của các dân tộc so sánh với tiếng Việt, NXB ĐHQG, Hà Nội, 1996. * Thực ra cái xe đạp đi được là do con người dùng chân đạp. Tuy nhiên, bàn chân không tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, cho nên mới nhìn qua thì ta thấy cái xe tự đi. Vì thế mới có cái tên là “tự hành xa” (VNC). ** Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) Nxb KHXH, Hà Nội, 1998. *** Theo Đỗ Hữu Châu. Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, 1998 tái bản lần thứ 1, tr. 158. **** Xem Nguyễn Lai: Nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH, Hà Nội, 2001.
File đính kèm:
- ca_c_kho_khan_trong_di_ch_5547.pdf