Biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy môn tiếng Anh tại một trường trung học phổ thông ở tỉnh Đồng Tháp
Từ kết quả đạt được tại một trường trung học phổ thông, bài viết đưa ra các biện pháp
nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh: nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môn
tiếng Anh trong đời sống làm việc; thường xuyên phân tích kết quả học tập, tăng cường bồi
dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém; xây dựng nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy; tăng cường
chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn; tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giúp học sinh có cơ
hội sử dụng tiếng Anh trong môi trường tập thể; tìm ra cách dạy tiếng Anh dễ nhớ, thiết kế
các hoạt động sinh động nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và
nhẹ nhàng.
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014 136 BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG ANH TẠI MỘT TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH ĐỒNG THÁP NGUYỄN VĂN ĐỊNH(*) TÓM TẮT Từ kết quả đạt được tại một trường trung học phổ thông, bài viết đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh: nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môn tiếng Anh trong đời sống làm việc; thường xuyên phân tích kết quả học tập, tăng cường bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém; xây dựng nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy; tăng cường chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn; tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giúp học sinh có cơ hội sử dụng tiếng Anh trong môi trường tập thể; tìm ra cách dạy tiếng Anh dễ nhớ, thiết kế các hoạt động sinh động nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và nhẹ nhàng. Từ khóa: giảng dạy tiếng Anh, hoạt động ngoại khóa, môi trường tập thể ABSTRACT From the results obtained in a high school, this article offers measures to improve teaching effectiveness in English: raising students’awareness about the importance of the English language in working life; regularly analyzing of learning outcomes, mentoring weak students; building resources for teaching; enhancing the sharing of teaching experience; organizing extra curricular activities to help students have the opportunity to use English in a collective environment; finding out how to teach English memorably, designing vivid activities to help students acquire knowledge naturally and gently. Keywords: teaching English, extra curriculum activities, collective environment 1. MỞ ĐẦU(*) Điều 7, Luật Giáo dục năm 2005 qui định: Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả [1]. Quyết định 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc (*)ThS, Trường THPT Tháp Mười, Đồng Tháp dân giai đoạn 2008-2020 nêu mục tiêu dạy học ngoại ngữ như sau: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội 137 nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [3]. Nhà trường cần xác định vai trò cần thiết của môn ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng đối với giáo dục phổ thông trong quá trình hội nhập quốc tế. Khẳng định vị trí quan trọng của giáo viên (GV) ngoại ngữ trong việc nâng cao chất lượng toàn diện là trách nhiệm của các cấp quản lý giáo dục. Từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy. Chính vì thế, các nhà trường và GV ngoại ngữ phải không ngừng nghiên cứu để tìm ra nhiều biện pháp thu hút học sinh (HS) tích cực học tập ngoại ngữ. 2. NỘI DUNG Hiện nay, xã hội có quá nhiều ngành nghề yêu cầu môn thi tuyển sinh thuộc nhóm khoa học tự nhiên (KHTN). Vì thế hầu hết HS chỉ quan tâm đầu tư (kể cả học thêm) các môn KHTN mà ít đầu tư môn khoa học xã hội và nhân văn (KHXH-NV), trong đó có tiếng Anh, nhằm mục đích thi đỗ đại học. Không ít GV tiếng Anh ở trường trung học phổ thông (THPT) chỉ đối phó với việc giải quyết chương trình, phục vụ cho các kỳ thi theo qui định mà chưa đầu tư hoặc ít quyết tâm tìm ra các giải pháp để thu hút HS tích cực học tập môn học Một số nhà trường chưa quan tâm đúng mức việc tạo điều kiện cho GV môn tiếng Anh phát huy khai thác thế mạnh môn học; chưa có nhiều giải pháp đảm bảo sự cân bằng trong truyền thụ kiến thức toàn diện cho học sinh. 2.1. Thực trạng dạy và học môn tiếng Anh tại Trường THPT Tháp Mười Tiến hành phỏng vấn bằng phiếu 59 HS tại trường THPT Tháp Mười gồm cả 3 khối lớp được chọn lựa ngẫu nhiên. Nội dung khảo sát thực trạng dạy học môn tiếng Anh tại trường bao gồm: (1) Sở thích của HS về môn ngoại ngữ tiếng Anh; (2) Nhận định về tầm quan trọng của tiếng Anh trong cuộc sống làm việc sau này; (3) Năng lực đội ngũ giảng dạy môn tiếng Anh của trường; (4) Kết quả giảng dạy tiếng Anh ở trường trong vài năm gần đây. Khảo sát bằng hình thức: trả lời vào phiếu hỏi; nghiên cứu hồ sơ chuyên môn, phân tích kết quả giảng dạy môn tiếng Anh của nhà trường. Kết quả thu được khá tin cậy như sau: 2.1.1. Khảo sát ý kiến học sinh về sở thích đối với môn tiếng Anh Khi được hỏi về nhóm môn học yêu thích, có 33/59 HS (55.9%) thích KHTN và 18 HS (30.5%) thích KHXH-NV, có 20 HS (33.9%) thích môn tiếng Anh (trong đó có những HS vừa thích KHTN và tiếng Anh vừa thích KHXH-NV và tiếng Anh). Xác định về tính phức tạp của môn tiếng Anh: có 10/59 HS (16.9%) cho rằng rất khó, 21/59 HS (35.6%) xác định là môn khó học, 21/59 HS (35.5%) cho là môn học bình thường như các môn khác, có 7/59 HS (11.9%) xem đây là môn dễ học. Nhận định về khả năng tiếp thu môn tiếng Anh của mình, có 3/59 HS (5.1%) trả lời là tiếp thu rất tốt, 10/59 HS (16.9%) tiếp thu tốt, 39/59 HS (66.1%) tiếp thu ở mức bình thường và có 8/59 HS (13.6%) có khả năng tiếp thu yếu. Về thời lượng trung bình dành cho môn tiếng Anh mỗi ngày: có 11/59 HS (18.6%) chỉ học chưa đầy nửa giờ, 25 HS (42.37%) học khoảng 1 giờ, 17/59 HS (28.81%) học từ 1 - 2 giờ và chỉ có 6/59 HS (10.16%) học trên 2 giờ mỗi ngày. 2.1.2. Nhận định về tầm quan trọng của ngoại ngữ (tiếng Anh) trong cuộc sống làm việc sau này 138 Có 41/59 HS (69.5%) cho là rất cần thiết, 17 HS (17.3%) cho là cần thiết nhưng có 2 HS (9.6%) cho là không cần thiết. Tiến hành khảo sát ý kiến 417 HS lớp 12 về việc chọn 2 môn thi TN còn lại thì thu được kết quả như sau: Hóa học 324 HS (77.7%); Sinh học 222 HS (53.2%); Vật lý 154 HS (36.9%), tiếng Anh 79 HS (18.9%), Địa lý 29 HS (7.0%), Lịch sử 26 HS (6.2%). Về cơ cấu phân ban của trường theo chọn lựa của HS: trường chỉ có 3/36 lớp (8.3%) học chương trình nâng cao tiếng Anh nhằm định hướng thi vào các trường đại học có thi tuyển môn tiếng Anh. Đa số HS xác định được tầm quan trọng và sự cần thiết của ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trong đời sống làm việc sau này. Tuy nhiên nhiều HS cho rằng đây là môn khó học. Không ít HS cảm thấy có khả năng hạn chế trong việc tiếp thu. Học sinh cũng chưa dành nhiều thời lượng cho môn tiếng Anh 2.1.3. Thực trạng đội ngũ giáo viên tiếng Anh của trường Số lượng, thâm niên, trình độ... GV tiếng Anh của trường [4] được thống kê như dưới đây: Tổng số Nữ Thâm niên Trình độ GV giỏi GV dạy lớp 12 8 7 Dưới 5 năm: 1; Từ 5-10 năm: 2; Trên 10 năm: 5 Cử nhân: 6; Thạc sĩ: 2; Chứng chỉ C1: 2 Cấp trường: 5; Cấp tỉnh: 2 7 2.1.4. Kết quả giảng dạy môn tiếng Anh của trường Số liệu các năm gần đây khẳng định kết quả giảng dạy các môn tiếng Anh của trường THPT Tháp Mười luôn ổn định ở mức cao so với các môn khác và so với toàn tỉnh, đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao tỉ lệ học sinh khá giỏi và hạn chế tỉ lệ lưu ban, bỏ học cho trường trong nhiều năm qua. Kết quả thi tốt nghiệp của môn tiếng Anh cũng rất cao so với mặt bằng chung của tỉnh và 3 năm liền xếp hạng nhì toàn tỉnh chỉ sau 1 trong 2 trường chuyên. Nhiều năm liền có HSG vòng tỉnh, học sinh đạt giải cuộc thi hùng biện, thi Olympic tiếng Anh. * Tỉ lệ HS đạt điểm trung bình cả năm: Một số kết quả dạy học môn tiếng Anh của trường trong những năm gần đây: (so với các môn được chọn thi tốt nghiệp THPT) [4]. Năm học Tiếng Anh Ngữ văn Lịch sử Địa lý Toán học Vật lý Hóa học Sinh học 2011-2012 78.0% 88.1% 94.9% 88.0% 76.5% 85.3% 85.2% 92.2% 2012-2013 85.8% 95.0% 93.3% 92.4% 83.0% 82.3% 89.2% 92.2% HKI 2013-2014 82.3% 90.5% 91.0% 91.0% 86.6% 85.9% 93.6% 90.4% 139 * Kết quả thi học sinh giỏi (HSG): [2] - Năm học 2011-2012, đạt giải 2 HSG vòng tỉnh (giải Ba và Khuyến khích). - Năm học 2012-2013, trường đạt giải 1 Ba vòng tỉnh. - Năm học 2013-2014, trường đạt 2 giải khuyến khích HSG cấp tỉnh, thi Hùng biện vòng tỉnh đạt 1 giải Ba, thi Olympic tiếng Anh qua mạng 1 giải Khuyến khích cấp tỉnh và giải Khuyến khích cấp toàn quốc. * Tỉ lệ điểm thi tốt nghiệp đạt từ 5 trở lên: [2] Đạt thứ hạng cao (tỉ lệ cao so với 42 trường THPT của tỉnh Đồng Tháp) Năm học Trường Toàn tỉnh 2010-2011 87.9% (hạng 2) 64.2% 2011-2012 98.8% (hạng 2) 87.1% 2012-2013 97.9% (hạng 2) 82.9% * Đánh giá thực trạng * Ưu điểm: Thực trạng đã phản ánh khá đúng suy nghĩ của học sinh về môn tiếng Anh. Học sinh thấy được sự cần thiết của tiếng Anh, thích học nhưng ngại học vì cho tiếng Anh là môn khó. Kết quả khảo sát sẽ giúp nhà trường có những biện pháp phù hợp trong việc đảm bảo chất lượng môn tiếng Anh cho học sinh. * Hạn chế: Việc khảo sát chỉ được thực hiện trên số lượng HS chưa nhiều. Ý kiến trả lời của HS có thể bị chi phối bởi một số nhân tố khác nên có vài kết quả chỉ mang tính tương đối. Phần lớn HS học tiếng Anh nhằm mục đích chính là “đối phó” với các kỳ thi chứ chưa nhằm mục đích nâng cao năng lực về ngoại ngữ và có thể giao tiếp được với người nước ngoài trong cuộc sống làm việc sau này. 2.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh tại trường THPT 2.2.1. Nâng cao nhận thức cho HS về tầm quan trọng của môn tiếng Anh trong đời sống làm việc sau này Nhà trường, giáo viên môn ngoại ngữ phải quán triệt đầy đủ tầm quan trọng của các môn ngoại ngữ nói chung và môn tiếng Anh nói riêng trong việc phấn đấu đạt mục tiêu của đề án dạy học ngoại ngữ đến năm 2020. Thực tế cho thấy nhiều môn học sẽ gắn bó thường xuyên với cuộc sống làm việc của HS trong đó có môn ngoại ngữ (nếu làm việc với người nước ngoài) Học tốt môn tiếng Anh là một công cụ quan trọng giúp thanh niên Việt Nam thành công trong cuộc sống làm việc sau này. Luôn đặt môn ngoại ngữ trong mối quan hệ biện chứng với các môn học khác để HS và gia đình thấy rằng đây là môn học cần thiết không thể thiếu ở trường phổ thông. 2.2.2. Thường xuyên khảo sát, phân tích kết quả học tập, tăng cường bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém Sau mỗi giai đoạn kiểm tra đánh giá, nhà trường tiến hành phân tích kết quả đạt được của HS; so sánh kết quả của HS trong cùng lớp, HS giữa các lớp. Từ đó, GV phân nhóm HS theo năng lực để có những biện pháp bồi dưỡng hợp lý. GV quan tâm giúp HS xóa bỏ cảm giác lo lắng tự ti khi học ngoại ngữ bằng cách không ngừng tìm ra 140 các biện pháp để làm cho môn học hấp dẫn lý thú. Việc tổ chức phụ đạo, giao bài tập cho HS cần đảm bảo tính vừa sức, tránh giao việc quá tải, quá khó sẽ tạo ra cảm giác chán nản tự ti. GV nên quan tâm khen ngợi động viên kịp thời các cố gắng dù rất nhỏ của HS. 2.2.3. Xây dựng, chọn lọc nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy, tăng cường chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn trong và ngoài đơn vị Tài liệu dành cho môn tiếng Anh rất phong phú, đa dạng. Chính vì thế, ngoài sách giáo khoa, GV cần tích cực tìm và chọn lọc các tư liệu từ nhiều nguồn như: tìm qua mạng các tài liệu hay của các trường trên cả nước; thu thập có hệ thống từ các hội thảo tập huấn chuyên môn. Tổ chuyên môn cần biên tập đề cương, xác định những yêu cầu trọng tâm của chương trình sao cho đảm bảo yêu cầu chương trình nhưng phù hợp với năng lực học sinh tại đơn vị. Tổ chức tốt việc dự giờ, đánh giá tiết dạy, phân tích đầy đủ ưu điểm và hạn chế các tiết thao giảng. Tại các cuộc họp chuyên môn, GV tập trung bàn các biện pháp cải tiến nâng cao hiệu quả giảng dạy theo từng bài, từng tiết. Nhà trường tổ chức cho GV giao lưu chia sẻ kinh nghiệm với GV ngoại ngữ của các trường có chất lượng giảng dạy hiệu quả. Ngoài ra, nhà trường cần mời GV trường khác ra đề thi diễn tập tốt nghiệp và thi thử đại học vừa để giao lưu kinh nghiệm vừa đánh giá khách quan kết quả giảng dạy của GV. 2.2.4. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa Nhà trường cần tổ chức các hoạt động ngoại khóa để giúp HS có cơ hội sử dụng tiếng Anh trong môi trường tập thể cũng như thường xuyên tổ chức các kỳ thi nghe nói (listenning and speaking) để các em có động cơ rèn luyện và học tiếng Anh. Hoạt động ngoại khóa giúp các em vượt qua cảm giác e ngại nói tiếng Anh. Hoạt động này được tổ chức, tư vấn bởi giáo viên và sự động viên cổ vũ của bạn bè. Thông qua hoạt động ngoại khóa, các em thấy tự tin hơn và cảm nhận rằng mình hoàn toàn có thể nói tiếng Anh. Hoạt động ngoại khóa cũng giúp GV tìm ra được HS có năng khiếu môn tiếng Anh để tuyển chọn, rèn luyện và bồi dưỡng cho các kỳ thi: HSG, hùng biện, Olympic từ đó tạo hạt nhân cho bộ môn và những HS này có thể giúp đỡ và hỗ trợ rèn luyện cho các HS khác để giúp nhà trường gầy dựng phong trào thực hành tiếng Anh. Các kỳ thi nghe nói tiếng Anh giúp nhiều HS vượt qua cảm giác tư ti trong giao tiếp bằng tiếng Anh. Do thiếu môi trường thực hành giao tiếp bằng ngoại ngữ nên đa số HS không áp dụng được kiến thức các em đã học và không có cơ hội rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh. Thông qua kỳ thi nghe nói tập trung, HS có cơ hội trao đổi, chia sẻ về các chủ đề gần gủi với cuộc sống. Thực tiễn cho thấy, học sinh rất lo lắng trước khi cuộc thi diễn ra. Chính vì thế các em tăng cường tìm hiểu, rèn luyện. Sau mỗi lần tham dự cuộc thi này, HS sẽ tiến bộ vì cảm thấy mình hoàn toàn có thể nói được tiếng Anh, thậm chí các em có thể đáp ứng được giao tiếp thông thường bằng tiếng Anh. 2.2.5. Thiết kế các hoạt động sinh động nhằm giúp HS tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và nhẹ nhàng Việc tìm ra những qui tắc giúp HS dễ ghi nhớ bài học, ghi nhớ từ vựng sẽ giúp các em bớt nhọc nhằn trong việc học tiếng Anh. Những câu vè, những hình ảnh liên 141 hệ, sự tương đồng về âm thanh trong tiếng Việt và tiếng Anh sẽ giúp HS hứng thú tìm hiểu và tích cực ghi nhớ. Các em sẽ không cảm thấy học tiếng Anh là một việc hết sức khó khăn và vất vả. Giáo viên có thể sử dụng những phút đầu giờ để giúp HS thực hành nói tiếng Anh thay vì kiểm tra bài cũ bằng những công thức khô khan và khó nhớ. Ví dụ: Khi học bài 12 của chương trình Lớp 10, giáo viên có thể cho HS nói tiếng Anh về chủ đề âm nhạc. Để nhiều HS có cơ hội nói tiếng Anh và học được nhiều cấu trúc ngữ pháp và từ vựng, GV đặt câu hỏi và yêu cầu mỗi HS phải trả lời bằng một phương án khác nhau, câu trả lời không được trùng nhau, học sinh trả lời trước sẽ ít bị trùng ý và sẽ không bị “phạt” (cần thống kê lại tất cả các câu hỏi và câu trả lời). Giáo viên ra câu hỏi thứ nhất: What kind of music do you like? Why? HS 1: I like pop music because it is interesting. HS 2: I like pop music because it helps me relax. HS 3: I like rock music because it is rousing. HS 4: I like folk music because it is sweet and gentle. . Học sinh sẽ trả lời cho đến khi các em không tìm ra từ vựng để trả lời cho câu hỏi đó. Thông qua mỗi câu hỏi, tất cả HS trong lớp sẽ học được nhiều từ vựng từ bạn bè. Câu trả lời hay sẽ được thưởng. Trong vòng khoảng 10 phút đầu của tiết học, GV có thể đặt từ 2-3 câu hỏi. Nếu áp dụng tốt cho nhiều tiết học, GV sẽ rèn luyện dần cho HS nói tiếng Anh chứ không riêng tiết speaking. Cách làm này sẽ giúp HS yêu thích môn tiếng Anh và góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn này. 3. KẾT LUẬN Các biện pháp nêu trên đã thực hiện tại trường THPT Tháp Mười không là biện pháp mới nhưng đã được tiến hành một cách khá đồng bộ từ cán bộ quản lý, giáo viên đến học sinh. Chính việc quan tâm đầu tư, xác định tầm quan trọng của bộ môn, khẳng định vai trò tích cực của GV môn tiếng Anh mà nhà trường đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của tập thể nhất là GV các môn KHXH-NV (vào thời điểm việc giảng dạy các môn KHXH-NV đang gặp nhiều khó khăn nhất định). Nhà trường luôn chủ động tìm ra những biện pháp, mô hình thiết thực để tạo điều kiện cho môn tiếng Anh đạt hiệu quả cao nhất. Từ kết quả đạt được tại trường THPT Tháp Mười, những biện pháp trên có thể áp dụng rộng rãi tại các trường trung học nhằm từng bước thay đổi suy nghĩ, thay đổi quan niệm của học sinh và gia đình về môn tiếng Anh từ đó HS tự tin và hứng thú học tập để đạt kết quả cao nhất. Giáo viên tiếng Anh có thể tham khảo các biện pháp nhằm nghiên cứu, khai thác tối đa điểm mạnh của môn học. Từ đó, GV mạnh dạn điều chỉnh phương pháp giảng dạy làm cho môn tiếng Anh hấp dẫn và thu hút HS hứng thú học tập hơn. Các nhà trường có thể nghiên cứu vận dụng trong quản lý góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn nhà trường. 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục (2005). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 2. Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Tháp, Báo cáo tổng kết năm học 2012-2013 và Phương hướng nhiệm vụ năm học 2013-2014. 3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020. 4. Trường Trung học phổ thông Tháp Mười, Báo cáo tổng kết năm học 2012-2013. *Ngày nhận bài: 3/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
File đính kèm:
- bien_phap_nang_cao_hieu_qua_giang_day_mon_tieng_anh_tai_mot.pdf