Phân tích lỗi sai khi sử dụng động từ năng nguyện “要” của sinh viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung Quốc - Khoa ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên

Động từ năng nguyện (còn gọi là trợ động từ) có vị trí quan trọng trong hệ thống ngữ pháp tiếng

Hán hiện đại, nó có đặc điểm ngữ pháp không giống với động từ thường. Do đó động từ năng

nguyện là một hiện tượng ngữ pháp tương đối phức tạp trong tiếng Hán, đồng thời cũng là một

phần ngữ pháp tương đối khó đối với sinh viên nước ngoài khi học tiếng Hán. Trong hệ thống

động từ năng nguyện thì động từ “”(yao) là một trong những động từ có tần số xuất hiện nhiều

nhất, có ngữ nghĩa đa dạng và ngữ pháp phức tạp. Do đó người nước ngoài đặc biệt là người mới

bắt đầu học tiếng Hán thường mắc những lỗi sai khi sử dụng câu có động từ năng nguyện “”.

Bài viết thông qua phát phiếu khảo sát lỗi sai khi sử dụng động từ năng nguyện “” cho 160 sinh

viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung Quốc - Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên đã tổng hợp

các lỗi câu sai mà sinh viên hay gặp, từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số kiến nghị trong

quá trình dạy và học động từ năng nguyện, giúp sinh viên hiểu rõ cách dùng của động từ này.

pdf7 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 730 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích lỗi sai khi sử dụng động từ năng nguyện “要” của sinh viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung Quốc - Khoa ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 427 
PHÂN TÍCH LỖI SAI KHI SỬ DỤNG ĐỘNG TỪ NĂNG NGUYỆN “要” 
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT NGÀNH TIẾNG TRUNG QUỐC 
- KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
 Ngô Thị Trà*, Nguyễn Thị Hải Yến 
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Động từ năng nguyện (còn gọi là trợ động từ) có vị trí quan trọng trong hệ thống ngữ pháp tiếng 
Hán hiện đại, nó có đặc điểm ngữ pháp không giống với động từ thường. Do đó động từ năng 
nguyện là một hiện tượng ngữ pháp tương đối phức tạp trong tiếng Hán, đồng thời cũng là một 
phần ngữ pháp tương đối khó đối với sinh viên nước ngoài khi học tiếng Hán. Trong hệ thống 
động từ năng nguyện thì động từ “要”(yao) là một trong những động từ có tần số xuất hiện nhiều 
nhất, có ngữ nghĩa đa dạng và ngữ pháp phức tạp. Do đó người nước ngoài đặc biệt là người mới 
bắt đầu học tiếng Hán thường mắc những lỗi sai khi sử dụng câu có động từ năng nguyện “要”. 
Bài viết thông qua phát phiếu khảo sát lỗi sai khi sử dụng động từ năng nguyện “要” cho 160 sinh 
viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung Quốc - Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên đã tổng hợp 
các lỗi câu sai mà sinh viên hay gặp, từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số kiến nghị trong 
quá trình dạy và học động từ năng nguyện, giúp sinh viên hiểu rõ cách dùng của động từ này. 
Từ khóa: Động từ năng nguyện“要”; ngữ pháp; lỗi sai; nguyên nhân; kiến nghị dạy học. 
Ngày nhận bài: 27/5/2020; Ngày hoàn thiện: 15/6/2020; Ngày đăng: 23/6/2020 
AN ANALYSIS OF ERRORS IN USING THE MODEL VERB “要” 
MADE BY CHINESE – MAJOR STUDENTS AT THE SCHOOL OF 
FOREIGN LANGUAGES – THAI NGUYEN UNIVERSITY 
 Ngo Thi Tra*, Nguyen Thi Hai Yen 
 TNU - School of Foreign Languages 
ABSTRACT 
Modal verbs (also called auxiliary verbs) play an important role in modern Chinese grammar 
system. Their grammatical characteristics differs from normal verbs. Therefore, these verbs are a 
relatively complex grammatical phenomenon in Chinese which challenges foreign students when 
studying Chinese. In the model verb system, the verb “要” is one of the most frequently used that 
has complex grammar and a variety of meanings. Foreign students, especially beginners who learn 
Chinese often make mistakes when using “要”. By means of a survey among 160 Chinese-major 
freshmen at the School of Foreign Language, this article summarized the mistakes that students 
often meet in using “要”, find out the causes and make some recommendations for the process of 
teaching and learning of the verb. 
Keywords: Model verb “要”; grammar; errors; causes; teaching and learning recommendations. 
Received: 27/5/2020; Revised: 15/6/2020; Published: 23/6/2020 
* Corresponding author. Email: ngotra.sfl@tnu.edu.vn 
Ngô Thị Trà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 428 
1. Đặt vấn đề 
Từ những năm 50 của thế kỷ trước tên gọi 
động từ năng nguyện đã xuất hiện trong tập 
sách “Sơ lược hệ thống dạy học ngữ pháp 
tiếng Hán”《暂拟汉语语法教学系统》. Tác 
giả Lữ Thúc Tương (吕叔湘 ) đã từng đề cập 
và cho rằng: “Trong trợ động từ có một bộ 
phận biểu thị khả năng và sự cần thiết, một bộ 
phận biểu thị ý nghĩa nguyện vọng”, do đó 
được gọi là “động từ năng nguyện” [1]. Vì thế 
tên gọi này hình thành, dần phổ biến rộng rãi 
và được sử dụng cho đến nay. 
Hiện nay trong giới học thuật đa số sử dụng hai 
tên gọi này, thông thường tên gọi là trợ động từ 
(助动词) được dùng trong thời gian đầu nghiên 
cứu sơ lược tiếng Hán, còn thuật ngữ động từ 
năng nguyện (能愿动词) được dùng nhiều 
trong quá trình dạy học tiếng Hán [2]. Do đó để 
tránh lẫn lộn tên gọi bài viết thống nhất sử dụng 
tên gọi là động từ năng nguyện. 
Căn cứ vào số liệu phân tích thống kê từ vựng 
tiếng Hán năm 1985 của Khoa Ngôn ngữ Bắc 
Kinh đã xuất bản thì động từ năng nguyện “ 要” 
có tần số xuất hiện nhiều nhất chiếm 31,6% [3]. 
Trong quá trình tham gia giảng dạy tại Khoa 
Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên nhóm tác 
giả thấy rằng động từ năng nguyện “要” xuất 
hiện rất nhiều trong các giáo trình giảng dạy và 
sinh viên thường mắc phải một số lỗi khi sử 
dụng động từ năng nguyện này, đặc biệt là sinh 
viên năm thứ nhất khi mới bắt đầu học tiếng 
Hán. Xuất phát từ lí do này, nhóm tác giả đã 
tiến hành khảo sát và phân tích lỗi sai của sinh 
viên khi sử dụng động từ năng nguyện “要” 
nhằm mục đích giúp sinh viên hiểu rõ về cách 
dùng của động từ đa nghĩa này đồng thời tìm 
ra nguyên nhân và đưa ra một số kiến nghị về 
giảng dạy liên quan đến động từ “要” (yao). 
Ngữ liệu nghiên cứu được sưu tầm chủ yếu từ 
kho ngữ liệu của Đại học Bắc Kinh và phiếu 
khảo sát lỗi sai của sinh viên Khoa Ngoại ngữ 
- Đại học Thái Nguyên khi dùng động từ này. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp tổng 
hợp quy nạp và phiếu khảo sát thực tế. Trên 
cơ sở tổng hợp những thành quả của người đi 
trước nghiên cứu về động từ năng nguyện 
“要”, sau đó tiến hành khảo sát thực trạng sử 
dụng thông qua phát phiếu điều tra và tổng 
hợp thống kê phân tích số liệu, từ đó đưa ra 
những kết luận. 
3. Nội dung nghiên cứu 
3.1. Sơ lược nghiên cứu về ngữ nghĩa động 
từ năng nguyện “要” 
Trong tiếng Hán hiện đại có nhiều góc độ, 
nhiều phương diện nghiên cứu về động từ thì 
nghiên cứu về động từ năng nguyện “要” còn 
là một góc độ sâu rộng hơn nữa. 
Đinh Thanh Thụ (丁声树) trong cuốn “Bàn về 
ngữ pháp tiếng Hán hiện đại” 
《现代汉语语法讲话》đã quy nạp hàm 
nghĩa của động từ năng nguyện “要” thành 3 
loại: Thứ nhất là biểu thị yêu cầu, nguyện vọng 
của cấp trên, thứ hai là biểu thị sự cần thiết 
trên thực tế, thứ ba là biểu thị sự tất yếu [4]. 
Vương Lực (王力) trong “Lược sử về ngữ 
pháp tiếng Hán”《汉语语法史》có bước đầu 
nghiên cứu sơ lược về động từ “要”. Từ góc 
độ sơ lược ngữ pháp ông đã chỉ ra tiền thân 
của “要” là “欲”, thể hiện rõ “要” là trợ động 
từ trở thành hình thức năng nguyện, đồng thời 
nó còn biểu thị tương lai [5]. 
Chu Đức Hy (朱德熙) trong “Giảng nghĩa 
ngữ pháp”《语法讲义》đã chỉ ra 2 lớp nghĩa 
của “要”: một là biểu thị ý nguyện, hai là biểu 
thị trên thực tế cần như này [6]. 
Lữ Thúc Tương (吕叔湘) trong cuốn “Tám 
trăm từ tiếng Hán hiện đại” 
《现代汉语八百词》đã đưa ra 5 lớp nghĩa 
của động từ năng nguyện “要”: Thứ nhất là 
biểu thị ý chí làm việc gì, thứ hai là biểu thị 
cần phải làm gì, thứ ba là biểu thị khả năng, 
thứ tư là biểu thị tương lai, thứ năm là biểu thị 
phán đoán, dùng trong câu so sánh [7]. 
3.2. Đặc điểm ngữ pháp 
Nghiên cứu về chức năng ngữ pháp của động 
từ năng nguyện có rất nhiều quan điểm khác 
nhau. Bài viết dựa trên quan điểm của tác giả 
Đổng Côn (董琨) trong “giảng nghĩa ngữ 
pháp” 《汉语讲义》 cho rằng: “động từ 
năng nguyện làm thuật ngữ, từ vị ngữ sau nó 
làm tân ngữ” [8]. Chu Đức Hy (朱德熙) trong 
“kết cấu ngữ pháp câu” 句法结构》thông qua 
Ngô Thị Trà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 429 
so sánh trợ động từ mang tính đại diện và động 
từ cập vật điển hình đã rút ra kết luận: “trợ 
động từ + động từ” là kết cấu thuật tân [9]. 
Căn cứ vào cách nhìn nhận, quan điểm khác 
nhau của các nhà nghiên cứu nhóm tác giả đã 
quy nạp tổng kết lại động từ năng nguyện 
“要” có những đặc điểm ngữ pháp sau: 
- Động từ năng nguyện “要” có thể sử dụng 
độc lập trong câu khẳng định, phủ định, câu 
nghi vấn. 
- Động từ năng nguyện “要” có thể độc lập 
làm vị ngữ hoặc thành phần độc lập của câu, 
hoặc độc lập trả lời câu hỏi. 
- Động từ năng nguyện “要” không chỉ có thể 
làm vị ngữ trung tâm hoặc vị ngữ mà còn có 
thể đảm nhận làm thành phần chủ ngữ, tân 
ngữ, định ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ. 
Ví dụ: 
(1)要做是他的主观意愿。 
Dịch nghĩa: Cần phải làm là ý kiến chủ quan 
của anh ta. (làm chủ ngữ) 
(2)要做的事不一定是正确的。 
Dịch nghĩa: Những việc cần phải làm không 
nhất định là đúng. (làm tân ngữ) 
- Có một số trường hợp động từ năng nguyện 
“要” có thể tiếp nhận sự tu sức của phó từ 
“更, 直” mà có một số trường hợp động từ 
năng nguyện “要” có thể nhận sự tu sức của 
động từ “想, 能”. 
- Động từ năng nguyện “要” và hình thức phủ 
định“不要” tồn tại không đối xứng nhau. 
3.2.1. Động từ năng nguyện “要” dùng trong 
câu khẳng định 
Kết cấu ngữ pháp cơ bản của động từ năng 
nguyện “要” dùng trong câu khẳng định là: 
NP (thành phần chủ ngữ) + 要 + VP (thành 
phần tân ngữ), “要” biểu thị NP có mong 
muốn thực hiện VP. Ví dụ: 
(3)奶奶最近身体不好,我要去看望她。 
Dịch nghĩa: Gần đây sức khỏe bà nội không 
tốt, tôi muốn đi thăm bà. 
3.2.2. Động từ năng nguyện “要” dùng trong 
câu phủ định 
Động từ năng nguyện là một loại từ tương đối 
đặc biệt ở chỗ thể khẳng định và phủ định của 
nó không đối xứng nhau, có nghĩa là mỗi một 
hạng mục nghĩa bao hàm của động từ năng 
nguyện và hình thức phủ định giữa chúng 
không đối xứng nhau. Trong khuôn khổ bài viết 
động từ năng nguyện “要” và hình thức phủ 
định của nó là “不要” không đối xứng nhau. 
Hình thức phủ định của động từ năng nguyện 
“要” là “不要” nhưng ngược lại “不要” lại 
không cùng ngữ nghĩa. Khi biểu đạt mong 
muốn thể khẳng định thì chúng ta có thể dùng 
“要” để biểu đạt nhưng thể phủ định thường 
không dùng “不要” mà thường dùng “不想” 
[10]. “不想” dùng để biểu đạt mong muốn, 
ước muốn phủ định của chủ ngữ. Ví dụ: 
(4)今天晚上我要吃面条,不想吃米饭。 
Dịch nghĩa: Tối nay tôi muốn ăn mì, không 
muốn ăn cơm. 
“不要” thường biểu đạt không nên làm gì, 
thường dùng nhiều khi biểu thị “cấm hoặc 
khuyên nhủ”. Chúng ta sẽ phân“不要” thành 
2 lớp nghĩa:“不要1” biểu thị ước muốn phủ 
định, “不要2” biểu thị cấm hoặc khuyên nhủ. 
- Cách dùng của “不要1”. Ví dụ: 
(5)我不要去那里上大学。 
Dịch nghĩa: Tôi không muốn học ở đó. 
(6)我不要吃爸爸煮的面条。 
Dịch nghĩa: Tôi không muốn ăn mì bố nấu. 
Trong 2 ví dụ trên “不要” đều phủ định mong 
muốn trên tinh thần ý chí của một người. 
Trong 2 ví dụ trên nghĩa của “不要” tương 
đương với “不想”. 
- Cách dùng của “不要2”.Ví dụ: 
(7)你不要在这里抽烟。 
Dịch nghĩa: Anh không được hút thuốc ở đây. 
(8)请不要浪费水。 
Dịch nghĩa: Xin đừng lãng phí nước sạch. 
Trong 2 ví dụ trên ý nghĩa của “不要” biểu 
đạt là không nên, không cho phép, biểu thị 
ngữ nghĩa cấm hoặc khuyên nhủ. 
3.2.3. Động từ năng nguyện “要” dùng trong 
câu hỏi 
Câu phản vấn và câu nghi vấn là hai trường 
hợp cơ bản mà động từ năng nguyện “要” sử 
dụng trong câu hỏi. 
- Dùng trong câu nghi vấn thông thường 
Câu nghi vấn thông thường có 3 hình thức 
biểu hiện là: sử dụng câu hỏi, dùng từ ngữ khí 
Ngô Thị Trà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 430 
“吗” đặt ở cuối câu hoặc là trước “要” 
thêm“不”. Ví dụ: 
(9)她有事吗?是她自己要先走的吗? 
Dịch nghĩa: Cô ấy có chuyện gì sao? Là tự cô 
ý muốn rời đi trước sao? 
(10)你要一定一起去吗? 
Dịch nghĩa: Anh nhất định muốn cùng đi 
hay sao? 
Ngoài ra còn có hình thức câu nghi vấn chính 
phản là “要不要”, trường hợp này nó thường 
là vị từ của câu nghi vấn chính phản, câu trả 
lời có 2 hình thức là phủ định hoặc khẳng 
định. Ví dụ: 
(11)你要不要吃水果? 
Dịch nghĩa: Anh muốn dùng chút hoa quả 
không? 
- Dùng trong câu phản vấn 
Câu phản vấn là trong câu không có từ phủ 
định nhưng ngữ nghĩa của câu là phủ định, 
ngược lại có từ phủ định nhưng lại mang 
nghĩa khẳng định.Ví dụ: 
(12)这件事情,你真的要怨恨我吗? 
Dịch nghĩa: Về chuyện này, anh thật sự muốn 
oán trách tôi sao? 
(13)做错了就是做错了,谁要听你的解释呢? 
Dịch nghĩa: Sai thì đã sai rồi, ai còn nghe bạn 
giải thích nữa chứ? 
3.3. Khảo sát thực trạng sử dụng động từ 
năng nguyện “要” của sinh viên năm thứ 
nhất ngành tiếng Trung Quốc - Khoa Ngoại 
ngữ - Đại học Thái Nguyên 
3.3.1. Mục đích, đối tượng và nội dung khảo sát 
- Mục đích khảo sát: Thông qua khảo sát thực 
trạng sử dụng động từ năng nguyện “要”của 
sinh viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung 
Quốc - Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái 
Nguyên để tìm ra những lỗi thường gặp của 
sinh viên khi sử dụng, đồng thời phân tích 
nguyên nhân dẫn đến lỗi sai đó và đưa ra một 
số kiến nghị trong thực tế dạy và học. 
- Đối tượng khảo sát trong bài viết là sinh 
viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung Quốc - 
Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên. 
- Nội dung khảo sát: Phiếu khảo sát được chia 
làm 3 phần: 
Phần 1: Chọn từ điền vào chỗ trống để khảo 
sát sinh viên có biết cách phân biệt giữa “要, 
想” và “要, 愿意” hay không. 
Phần 2: Yêu cầu sinh viên phán đoán đúng sai 
10 câu, chủ yếu khảo sát sinh viên phán đoán 
đúng sai về ngữ nghĩa và cách dùng của động 
từ năng nguyện “要”. 
Phần 3: Căn cứ vào những từ cho sẵn yêu cầu 
sinh viên sắp xếp thành câu đúng. 
3.3.2. Phân tích kết quả khảo sát 
Tổng số phiếu phát ra là 160 phiếu và thu về 
160 phiếu, trong tổng số 32 câu của phiếu 
khảo sát làm đúng nhiều nhất được 28 câu, 
đúng ít nhất được 11 câu. 
Bảng 1 thống kê cụ thể kết quả khảo sát thực 
trạng sử dụng động từ năng nguyện “要” của 
sinh viên năm thứ nhất ngành tiếng Trung 
Quốc - Khoa Ngoại ngữ: 
Bảng 1. Thống kê kết quả khảo sát 
sử dụng động từ năng nguyện “要” 
Nội dung 
khảo sát 
Số 
câu 
Số câu 
đúng 
Tỷ lệ câu 
đúng 
(%) 
Số 
câu 
sai 
Tỷ lệ 
câu sai 
(%) 
Phần 1 18 2160 75,0 720 25,0 
Phần 2 10 1323 83,1 277 16,9 
Phần 3 4 557 87,3 83 12,7 
Tổng 32 4040 78,9 1080 21,1 
Thông qua phân tích kết quả khảo sát chúng 
ta thấy rằng sinh viên năm thứ nhất chuyên 
ngành tiếng Trung Quốc – Khoa Ngoại ngữ 
có lỗi sai sử dụng nhầm 3 động từ năng 
nguyện “要,想,愿意” và lỗi này chiếm tỷ 
lệ cao nhất, điều này thể hiện rõ sinh viên vẫn 
chưa nắm rõ và phân biệt sự khác nhau về 
ngữ nghĩa và cách dùng của 3 động từ năng 
nguyện này. Ngoài ra còn tồn tại các lỗi khi 
sử dụng như: thiếu động từ năng nguyện 
“要”, thừa động từ này và sai trật tự từ này 
trong câu được thống kê trong bảng 2. 
Bảng 2. Thống kê lỗi sai khi sử dụng 
động từ năng nguyện “要” 
Lỗi sai Số câu sai 
Tỷ lệ câu sai 
(%) 
Thiếu động từ 335 31,0 
Thừa động từ 158 14,6 
Sai trật tự từ 34 3,2 
Dùng nhầm từ 553 51,2 
Sau đây bài viết sẽ phân tích cụ thể các loại 
lỗi sai mà sinh viên năm thứ nhất ngành tiếng 
Trung Quốc – Khoa Ngoại ngữ gặp phải khi 
sử dụng động từ năng nguyện “要” và nguyên 
nhân dẫn đến các lỗi sai này. 
Ngô Thị Trà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 431 
- Lỗi sai sử dụng thiếu động từ năng nguyện “要” 
Lỗi sai này là do dùng thiếu hoặc chưa nắm rõ 
cách dùng của động từ năng nguyện “要”. 
Ví dụ: 
 (14) 妈妈告诉我努力学习汉语。 
Dịch nghĩa: Mẹ bảo tôi chăm chỉ học tiếng Hán. 
Trong ví dụ trên cần thêm động từ năng 
nguyện “要” trước “努力”, ví dụ (14) sẽ là: 
妈妈告诉我要努力学习汉语 (Dịch nghĩa: 
Mẹ bảo tôi cần phải chăm chỉ học tiếng Hán). 
Xuất hiện lỗi sai này còn do trong quá trình 
giao tiếp hàng ngày cũng có lúc sử dụng và 
không sử dụng động từ năng nguyện “要” 
không ảnh hưởng đến ngữ nghĩa của câu, điều 
này có khả năng tạo ra sự nhầm lẫn cho người 
học, họ có thể cho rằng động từ năng nguyện 
“要” không quan trọng. Trong hệ thống ngữ 
pháp tiếng Hán có lúc lược bỏ động từ năng 
nguyện nhưng câu vẫn được thành lập vì động 
từ năng nguyện đứng trước động từ hoặc 
thành phần động từ biểu thị đặc điểm hoặc 
trạng thái của động tác. Ví dụ: 
(15) a. 她去上海出差。 
 Dịch nghĩa: Cô ấy đi Thượng Hải công tác 
 b.她要去上海出差。 
Dịch nghĩa: Cô ấy phải đi Thượng Hải công tác. 
Trong ví dụ trên cả hai câu đều không sai 
nhưng có sự khác biệt: câu a không có động 
từ năng nguyện “要”, câu b thì có. Câu a là 
biểu đạt tình huống sự việc đã xảy ra, câu b là 
yêu cầu cấp trên đối với cấp dưới hay cũng có 
khả năng cách nghĩ của bản thân như thế là 
đúng. Nếu sinh viên chưa nắm chính xác 
nghĩa của động từ năng nguyện “要” thì xuất 
hiện lỗi sai này là bình thường có thể xảy ra. 
- Lỗi sai khi dùng thừa động từ năng nguyện “要” 
Động từ năng nguyện là thành phần quan 
trọng trong câu. Trong quá trình học sinh viên 
thường gặp lỗi sai là chỗ cần dùng thì không 
dùng, ngược lại chỗ không cần dùng thì lại 
thêm vào cũng tạo ra lỗi sai và làm cho câu có 
sự khác biệt về ngữ nghĩa. Ví dụ: 
(16)她说如果我有什么不明白的事,我尽
管要问她。 
Dịch nghĩa: Cô ấy nói nếu tôi có việc gì 
không hiểu, tôi cứ phải hỏi cô ấy. 
Trong ví dụ trên“要” cần lược bỏ ví dụ (16) sẽ 
là: 她说如果我有什么不明白的事,我尽管问她 
(Dịch nghĩa: Cô ấy nói nếu tôi có việc gì 
không hiểu, tôi cứ hỏi cô ấy.) 
- Lỗi sai khi dùng nhầm động từ năng nguyện “要” 
Người học tiếng Hán đều biết trong hệ thống 
từ vựng tiếng Hán hiện đại rất hay gặp từ đa 
nghĩa hay gần nghĩa, với hiện tượng này thì 
đối với động từ năng nguyện loại biểu thị 
mong muốn, ước muốn càng thể hiện rõ. Do 
đó đặc trưng này gây khó khăn cho người 
nước ngoài học tiếng Hán. 
Khách quan mà nói tiếng Hán là loại ngôn 
ngữ có độ khó không nhỏ, là một loại ngôn 
ngữ có đặc thù riêng. Có lúc sự khác biệt ngữ 
nghĩa giữa các từ là rất nhỏ khiến cho người 
Trung Quốc cũng có thể dùng sai huống chi là 
người nước ngoài trong giai đoạn đầu học 
tiếng Hán, do đó xảy ra lỗi sai này là điều khó 
tránh khỏi. Ví dụ: 
*(17) 我下课后想去休息,不要学习。 
Dịch nghĩa: Sau khi tan học tôi muốn nghỉ 
ngơi, không cần học . 
*(18) 我一定想拿到奖学金。 
Dịch nghĩa: Tôi nhất định muốn lĩnh được 
học bổng 
*(19) 我真不要离开中国。 
Dịch nghĩa: Tôi thật sự không cần rời xa 
Trung Quốc 
Trong ví dụ (17) 不要 nên bỏ và sửa thành 
不愿意, ví dụ (18) 想 nên bỏ và sửa thành 要, 
ví dụ (19) 不要 nên bỏ và sửa thành不想. Do 
đó các câu đúng của 3 ví dụ trên là: 
(17)我下课后想去休息,不愿意学习。 
Dịch nghĩa: Sau khi tan học tôi muốn nghỉ 
ngơi, không muốn học. 
(18)我一定要拿到奖学金。 
Dịch nghĩa: Tôi nhất định phải lĩnh được 
học bổng 
(19)我真不想离开中国。 
Dịch nghĩa: Tôi thật sự không muốn rời xa 
Trung Quốc 
“要,想,愿意” là những động từ năng 
nguyện điều biểu thị ngữ nghĩa mong muốn, 
có trường hợp chúng có thể dùng thay thế cho 
Ngô Thị Trà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 427 - 433 
 Email: jst@tnu.edu.vn 432 
nhau nhưng có trường hợp không thể thay thế 
cho nhau. 
- Lỗi sai khi dùng sai vị trí của động từ năng 
nguyện “要” 
Trong quá trình học tiếng Hán một số sinh 
viên do không hiểu chính xác hoặc nắm rõ qui 
tắc ngữ pháp của động từ năng nguyện “要”, 
do đó rất dễ dùng sai vị trí của từ này trong 
câu nên chúng ta gọi là lỗi sai trật tự từ.Ví dụ: 
*(20)我去游乐场想玩旋转木马。 
*(21)他静坐想一会儿。 
*(22)可是我们总要得吃饭。 
Trong ví dụ (20) trật tự đúng của câu là “ 
我想去游乐场玩旋转木马” do trong câu 2 
động từ liên tiếp đứng cạnh nhau thì động từ 
năng nguyện phải là động từ đứng trước. 
Trong ví dụ (21) trật tự đúng là: 
他想静坐一会儿 căn cứ vào ngữ pháp tiếng 
Hán hiện đại sau động từ năng nguyện là 
động từ có tính vị từ do đó trật tự thông 
thường của câu là: Chủ ngữ + động từ năng 
nguyện + Vị ngữ + Tân ngữ. 
Trong ví dụ (22) trật tự đúng là 
可是我们总得要吃饭 vì phó từ bắt buộc phải 
đứng trước động từ năng nguyện “要”. 
3.4. Nguyên nhân dẫn đến các lỗi sai của 
sinh viên năm thứ nhất Khoa Ngoại ngữ - 
Đại học Thái Nguyên khi sử dụng động từ 
năng nguyện “要” 
3.4.1. Nguyên nhân khách quan 
Thứ nhất, do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Mỗi 
loại ngôn ngữ đều có những đặc điểm riêng 
biệt với các loại ngôn ngữ khác, trong quá 
trình học người học luôn tìm ra những đặc 
trưng giống với tiếng mẹ đẻ, nhưng có điểm 
giống nhau và có điểm không giống nhau nên 
rất dễ dùng sai. Do đó trong quá trình dạy học 
và so sánh giáo viên giúp sinh viên khắc phục 
sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. 
Thứ hai, do độ khó nhất định của động từ 
năng nguyện“要”. 
Động từ năng nguyện “要” là một trong 
những động từ có ngữ nghĩa đa dạng và ngữ 
pháp phức tạp; do đó khi sử dụng sinh viên 
rất dễ dùng sai nếu không nắm rõ về ngữ 
nghĩa và cách dùng của động từ này. 
Thứ ba, do tài liệu học tập và tài liệu tham 
khảo chưa phong phú, chưa tập trung tổng 
hợp miêu tả hết cách dùng và ý nghĩa của 
động từ năng nguyện“要”. Cách dùng của 
động từ năng nguyện “要” không được giới 
thiệu tập trung ở một bài học mà nằm rải rác 
ở các bài trong giáo trình, do đối tượng khảo 
sát là sinh viên năm thứ nhất mới bắt đầu học 
tiếng Hán, vì vậy chưa biết tổng hợp cách 
dùng của động từ này nên rất dễ dùng sai. 
3.4.2. Nguyên nhân chủ quan 
Thứ nhất, do khả năng nhận 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_loi_sai_khi_su_dung_dong_tu_nang_nguyen_cua_sinh_v.pdf
Tài liệu liên quan