Tiõng anh theo dòng thời sự
TIẾNG ANH THEO DÒNG THỜI SỰ
THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN
Chuyện học và dạy
Nguyễn Vạn Phú
Đã vào mùa tuyển sinh của các trường đại học Anh-Mỹ và báo chí ở các nước này cũng
bắt đầu đề cập đến những vấn đề muôn thuở của giáo dục đại học, năm nay nổi lên
chuyện “chất lượng” hay “công bằng
tỷ giá bình quân liên ngân hàng hàng ngày; to push... lower đôi lúc được diễn đạt ngược lại trong tiếng Việt nên chú ý kẻo nhầm. Dịch hay không? Nguyễn Vạn Phú Nhiều người cứ tưởng cách hiểu tiếng Anh nhanh nhất là dịch sang tiếng Việt trước đã. Chính sai lầm này là trở ngại lớn nhất cho người Việt học tiếng Anh vì hiểu không liên quan đến dịch và dịch là một kỹ năng khó, hầu như không cần thiết nếu chỉ học một ngoại ngữ để sử dụng chứ không phải đi làm phiên dịch viên. Xin lấy chương đầu tiên của cuốn Eat the Rich nổi tiếng của P. J. O’Rourke làm ví dụ. Đây là một cuốn sách về kinh tế nhưng được viết với giọng văn dí dỏm, châm biếm rất có duyên nên đọc rất lôi cuốn, dù đồng tình hay phản đối những lập luận của người viết. Tác giả mở đầu bằng thắc mắc: “Why do some places prosper and thrive while others just suck?”. Nếu gắng dịch câu này, đến từ suck, chắc ta sẽ bị khựng lại liền. Suck là một từ dạng thông tục, trong khi nghĩa chính thức là bú, mút thì nghĩa thông tục của nó rất đa dạng. Thức ăn dở quá - it sucks; bộ phim quá tệ hại - it sucks... nói chung chê cái gì, người ta thường nói it sucks. Như vậy, đâu cần dịch câu trên làm gì cho mệt, chỉ cần hiểu tác giả tự hỏi vì sao có nước, có vùng ngon lành, có nơi lại lụn bại, không ngóc đầu lên nổi là đủ. Khi đã nhận ra cách đặt vấn đề của tác giả, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa của các câu sau đó - chỉ để làm rõ ý trên. It’s not a matter of brains. No part of the earth is dumber than Beverly Hills, and the residents are wading in gravy. Nếu cố gắng, ta sẽ dịch được câu: “Đấy không phải là vấn đề trí khôn. Không có nơi nào trên trái đất này ngu ngốc hơn Beverly Hills nhưng dân ở đấy đang sống trong nhung lụa”. Dịch như vậy cũng không giúp gì cho việc hiểu câu văn mà còn có nguy cơ làm ý tác giả bị hiểu sai. O’Rourke muốn chọc quê dân nhà giàu ở khu Beverly Hills sang trọng gần kinh đô điện ảnh Hollywood, nơi ở của các minh tinh màn bạc, rằng họ chỉ là những con búp bê xinh đẹp mà không có đầu óc. Gravy nghĩa đen là nước xốt thịt nhưng nghĩa bóng là tiền bạc, của cải, có đôi chút hàm ý phi pháp. Thử đọc tiếp, chúng ta sẽ thấy các câu sau vẫn tiếp tục mạch văn châm biếm này: “In Russia, meanwhile, where chess is a spectator sport, they’re boiling stones for soup”. Cả hai lối so sánh hàm hồ này chỉ để minh họa ý tưởng: chỉ số thông minh của một dân tộc không quyết định dân tộc đó phát triển mạnh hay không. Khi nhận ra mạch văn, chúng ta cũng dễ đoán nghĩa của các cụm từ mơ hồ: “Maybe culture is the key, but wealthy regions such as the local mall are famous for lacking it”. Ở đây ý tác giả muốn “khều” nhẹ rằng các trung tâm mua sắm, dù bề ngoài rất hào nhoáng, lại là nơi thiếu văn hóa! Một câu khác: “In 1000 B.C., when Europeans were barely using metal to hit each other over the head, the Zhou dynasty Chinese were casting ornate wine vessels big enough to take a bath in. Yet, today, China stinks”. Để bác bỏ yếu tố văn minh trong việc giúp một đất nước trở nên thịnh vượng hay không, tác giả so sánh dân châu u cách đây khoảng 3.000 năm còn bận đâm chém nhau với vũ khí thô sơ thì người Trung Hoa dưới triều nhà Chu đã biết làm các vại rượu khổng lồ có hoa văn công phu. Chữ stink vừa dùng theo nghĩa đen để nối với cái ý “take a bath” vừa dùng theo nghĩa bóng để chê Trung Quốc ngày nay. Câu này làm sao dịch cho hết ý! Ngay cả tựa sách Eat the Rich cũng rất khó dịch vì nó là một dạng “đồng dao”: Eat the rich, kill the poor, screw every other sonofabitch. Nếu chúng ta đã đồng ý với nhau, dịch là công đoạn không cần thiết khi đọc để hiểu tiếng Anh, hãy thử đọc một bài báo ngắn trên tờ The Economist số ra tuần rồi về dự báo thị trường chứng khoán năm 2007. “Investors are enthusiastic about buying fixed-income assets, even though yields are low by historical standards”. Vì thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động cách đây mấy năm nên nhiều khái niệm chưa có tiếng Việt tương đương, càng tốt cho lời khuyên không cần dịch. Chẳng hạn fixed-income assets phải hiểu là các công cụ đầu tư đem lại tiền lãi ổn định, ở đây muốn nói chủ yếu đến các loại trái phiếu. Như vậy câu trên có thể hiểu là nhà đầu tư hiện thích mua trái phiếu [hơn cổ phiếu] cho dù lợi suất thấp hơn so với trước đây. Một câu khác: “Emerging-market bond spread are close to all-time lows”. Lợi suất (yield) của trái phiếu ở những thị trường mới nổi lúc nào cũng cao hơn lợi suất của trái phiếu Chính phủ Mỹ - chênh lệch giữa chúng gọi là spread. Hiểu được khái niệm này rồi, chúng ta sẽ thấy phần đầu câu trên có nghĩa mức chênh lệch này hiện đang ở mức rất thấp - tức là trái phiếu của các nước đang phát triển cũng không hấp dẫn gì lắm. Nhưng “pension funds and insurance companies in the developed world have become more cautious and are increasingly buying bonds in an attempt to match their liabilities”. Đương nhiên rồi, cẩn thận thì mua trái phiếu an toàn hơn cổ phiếu, để có gì vẫn còn những khoản chắc ăn, bù cho các khoản phải chi trả. Bài học cuối năm Nguyễn Vạn Phú Chuyện thị trường chứng khoán Thái Lan xảy ra vào đầu tuần trước nhưng tuần này vẫn còn nhiều bài báo phân tích đủ góc cạnh vì nó gợi nhớ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á cách đây gần 10 năm. Có báo so sánh sự khác biệt: “Instead of being provoked by a strong U.S. currency, Thailand is reacting to a weak dollar. That speaks volumes about just how far the once-mighty greenback has fallen”. Như vậy, cả hai lần đều do đồng đô la Mỹ, ngày xưa mạnh, hôm nay yếu. Để tránh lập lại, người viết dùng ba từ U.S. currency, dollar, greenback và nếu cần có thể dùng hàng chục từ khác để chỉ đồng tiền của Mỹ. Các mệnh giá cụ thể cũng có nhiều từ lóng như 1.000 đô la được gọi là grand, 100 đô la gọi là C-note hay large (twenty large tức là 2.000 đô la). Trong câu trên có cụm từ speak volume - là một minh chứng hùng hồn, một bằng chứng rõ ràng. Có cả 10 năm để nhìn lại nên bây giờ người ta viết về cuộc khủng hoảng 1997 rất gọn. “In the 1990s, Thailand ran a large current account deficit for years... with few, if any, consequences”. Trong cán cân thanh toán (balance of payments) có hai khoản chính là current account (tài khoản vãng lai) và capital account (financial account) (tài khoản vốn); lúc đó Thái Lan bị thâm hụt tài khoản vãng lai nhưng không hề hấn gì vì tiền nước ngoài đổ vào không ngớt. Có tiền không biết làm gì, người ta đổ vào thị trường địa ốc, thị trường chứng khoán, làm cho đồng baht lẽ ra phải mất giá mạnh. “Yet Thailand stubbornly kept the baht fixed to a basket of currencies, of which the dollar was the biggest component”. Để diễn tả chủ trương gắn đồng tiền một nước vào đồng tiền một nước khác, ngoài từ fix như trên, người ta còn thường dùng từ peg. Câu “Pegged renminbi an effective subsidy” phải hiểu thành đồng nhân dân tệ được gắn chặt với đồng đô la Mỹ thực tế là một dạng trợ cấp. Khủng hoảng nổ ra khi “Speculators saw opportunity and pounced. They placed massive bets that Thailand wouldn’t be able to maintain the value of its currency”. Từ pounce thường dùng để chỉ chuyện “mãnh thú vồ mồi” ở đây rất ấn tượng nhưng chuyện cá cược phải hiểu theo nghĩa bóng: Khi đoán trước đồng baht sẽ mất giá, giới đầu cơ “cược” bằng cách vay tiền baht rồi đổi ra tiền đô. Ví dụ vay 40 triệu baht mua 1 triệu đô la Mỹ, khi đồng baht mất giá, họ bán 1 triệu đô được 50 triệu baht, chẳng hạn, và bỏ túi gần 10 triệu baht tiền “thắng cược” sau khi trả lại 40 triệu baht và một ít chi phí. Rất dễ đoán hậu quả: “The country’s central bank watched its currency reserves plummet”. Sau khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, Thái Lan lúc đó đành tuyên bố thả nổi đồng baht. Đồng tiền này ngay lập tức sụt mất 20% còn thị trường chứng khoán đến cuối năm đó, sụt mất hơn một nửa. Lần này, tiền nước ngoài cũng đổ vào Thái Lan nhưng đó là do đồng đô la Mỹ suy yếu nên đồng baht tăng giá quá mức chịu đựng của nhà xuất khẩu. Chính quyền Thái Lan đã có một quyết định mà tờ The Nation gọi là “The 820 Billion Baht Blunder”: “30 percent of foreign exchange brought into the country, excluding funds from exports, would have to be put in a non-interest bearing account for one year”. Có biện pháp này, gọi là capital controls, là vì trong một tuần đầu tháng 12, có đến 950 triệu đô la đổ vào thị trường chứng khoán so với mức 300 triệu đô la mỗi tuần trong tháng 11. Tờ The Nation đặt tít như vậy là bởi ngay sau đó, “Thailand’s SET index shed 15 percent of its value, or $22.9 billion, equal to 820 billion baht”. Ở đây cần lưu ý, báo chí nói sau đó Chính phủ Thái Lan đành phải hủy bỏ lệnh hôm trước nhưng thật ra chỉ bỏ một phần: “Finance Minister Pridiyathorn Devakula said curbs on foreign investment in bonds and other debt instruments would remain”. Debt intruments là các loại giấy nợ như bills, bonds, notes, CDs, commercial paper, and banker's acceptances. Trái phiếu (bond) là từ nói chung, ngắn hạn dưới một năm gọi là bill, trung hạn gọi là note, kỳ hạn dài hơn 10 năm gọi là bond, CD là chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit). Như vậy đưa tiền vào Thái Lan mua bán cổ phiếu thì được nhưng mua bán trái phiếu và các loại giấy nợ khác thì vẫn phải giữ lại 30% trong tài khoản không tính lãi. Mặc dù sau đó thị trường chứng khoán Thái Lan có phục hồi nhưng cái mất lớn hơn nằm ở chỗ khác. Đại diện một ngân hàng nhận xét: “Policy decision-making seems to be at odds with the workings of capital market”. To be at odds with là chỏi với; còn workings ở đây là cơ chế vận hành. Một nhận xét khác: “The fact that a lot of portfolio money has come to Asia makes them that much more vulnerable to any sudden policy changes”. Portfolio money là tiền đầu tư gián tiếp. Đây là những góc nhìn từ nhà đầu tư, đồng tiền liền khúc ruột; còn hiện tượng các nước châu Á hiện nay bị trở thành con tin của đồng đô la yếu và dòng chảy vốn đầu tư toàn cầu như thế nào xin trở lại vào dịp khác.
File đính kèm:
- gt00385_9447.pdf