Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng
Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch
lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với
nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận
thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong
diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận
yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng.
Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được
giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các
phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng
bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất
(Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar),
nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn
ngôn một cách khoa học hơn.
nh về các cấp độ liên kết (phỏng theo Kroon, Caroline, 1997, tr.17-32) Mức độ Đơn vị cơ bản Liên nhân Khung ngôn trung Từ vị Vận hành tố Biểu trưng Khung vị ngữ Từ vị Vận hành tố Mô hình cấu trúc Hình vị Âm học Mô hình ngôn điệu Âm thanh Hengeveld (1997) nhận xét rằng, sự phân biệt trên xác định vị trí thành tố khái niệm một mặt giữa ý định giao tiếp và mặt khác là các khái niệm hóa được phản ánh trong thành tố ngữ pháp ở cấp độ liên nhân và biểu trưng. Do đó, tiếp theo nghiên cứu của Kroon (1997, tr.17-32), Hengeveld (1997, tr.1-16) giải thích thêm rằng, đơn vị thấp hơn ở mức độ liên nhân không phải là hành động ngôn từ như được thừa nhận trong mô hình của ông mà là hành động diễn ngôn. Ngoài ra, tác giả còn khuyến nghị rằng, một lượt lời, đơn vị tối thiểu trong cấu trúc trao lời, có thể bao gồm chỉ một hành động trung tâm hoặc có thể được bổ sung bởi một hoặc hai hành động phụ. Mỗi một hành động phụ biểu đạt khung ngôn trung của nó (bao gồm tham thể, và luận cứ trong nội dung được giao tiếp). Cấp độ biểu trưng có liên quan đến những miêu tả các thực thể thuộc thứ tự khác nhau khi chúng xuất hiện trong thế giới phi ngôn ngữ (nghĩa là thực thể thuộc thứ tự thứ ba hay nội dung mệnh đề (p), thực thể ở thứ tự thứ hai hay trạng thái sự vụ (e), thực thể ở thứ tự thứ nhất hay cá thể (x), và thực thể không có thứ tự hay đặc tính (f)). Cuối cùng, cấp độ biểu đạt là sự biểu trưng của cấu trúc thành tố. Cấu trúc này bắt đầu ở mức độ đoạn văn (Para), có thể bao gồm một hoặc hai câu (S). Mỗi một câu có thể bao gồm một hoặc hai cú (Cl), mỗi một cú bao gồm một hoặc hai cụm vị từ (PrP) hoặc cụm quy chiếu (RP), mỗi một cụm quy chiếu bao gồm một hoặc hai từ vị (Lex). Ngoài cấu trúc tầng bậc hướng xuống dưới ở cả hai mức độ liên nhân và biểu trưng, Hengeveld cũng nhận xét rằng, cấu trúc tầng bậc hướng lên trên là một đặc tính của tất cả các cấp độ phân tích. Do đó, ở cấp độ liên nhân, kết cấu tầng bậc hướng lên trên có thể bao gồm các lớp lượt vai (turn) và trao lời (exchange) trong các đối thoại, và ở cấp độ biểu trưng các lớp hồi (episode) và truyện (story) trong thể loại kể truyện, và ví dụ như ở cấp độ biểu đạt có phần (section) và chương (chapter) trong giao tiếp dưới dạng văn bản. Mặc dù khả năng các lớp hướng lên trên này cung cấp đầu mối về bản chất cho mô hình diễn ngôn trong phạm vi Ngữ pháp diễn ngôn chức năng, nhưng để giải thích đầy đủ về mạch lạc và những mối quan hệ mạch lạc và cách mà các mối quan hệ này có liên quan đến nhau như thế nào trong ngữ cảnh diễn ngôn, rõ ràng là chúng ta cần phải giải thích sâu hơn những vấn đề này dựa trên sự phân tích toàn bộ những chuỗi diễn ngôn xác thực theo đường hướng khiến nghị của Connolly (1997, tr.89-116). 119KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: ĐỊNH HƯỚNG CHO NGƯỜI DẠY TIẾNG VỀ VIỆC HIỂU YẾU TỐ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN DIỄN NGÔN Nói chung, các phương pháp tiếp cận trên nhằm giúp người dạy có một cái nhìn khá bao quát về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo các mô hình theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar), làm mục tiêu định hướng khi giảng dạy ngôn ngữ hướng người học học ngôn ngữ là để sử dụng gắn liền với ngữ cảnh sử dụng cụ thể (language to use in context). Người dạy không nên gượng ép người học học các quy tắc được lý tưởng hóa với những hình thức ngữ pháp cố định tách rời với ngữ cảnh sử dụng. Cụ thể là, ở Việt nam, ngay từ những năm học tiếng Anh ở bậc phổ thông, khi giảng dạy kỹ năng viết, giáo viên nên xem lại và bổ sung những bài tập về luyện viết, chẳng hạn như, giảng dạy cách biểu đạt những cấu trúc ngữ pháp dùng trong đoạn văn trong ngữ cảnh và tình huống sử dụng, thay vì chỉ dừng ở giới hạn là những câu tách biệt. Khi đó, việc giảng dạy và nhấn mạnh với người học rằng, liên kết và mạch lạc là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng một văn bản viết. Vì trong một chừng mực nào đó, các loại liên kết và tần suất sử dụng các mối liên kết trong văn bản phản ánh kỹ năng sáng tạo của người viết và ảnh hưởng đến những đặc tính về phong cách và bố cục của văn bản mà người viết tạo lập. Do đó, khi đánh giá văn bản viết của sinh viên (ngay từ cấp độ thấp) về tính thống nhất mạch lạc trong văn bản, người dạy nên áp dụng cách đánh giá theo đề nghị của Feez (1998) qua cách mà người học sử dụng: trường từ vựng (lexical sets), liên kết được tạo lập thông qua các hình thức biểu đạt mối quan hệ đẳng lập (coordinators) hay quan hệ phụ thuộc (subordinators), phép quy chiếu, sự phân phối thông tin trong đoạn văn và cú. Rõ ràng rằng, việc dạy và học ngôn ngữ ngày nay ngay từ cơ sở ban đầu người dạy không những giảng dạy cấu trúc ngữ pháp, mà còn hướng người học nắm vững những kỹ năng tạo lập một diễn ngôn biết chú trọng và thể hiện nội dung cần diễn đạt cũng như mục đích giao tiếp của văn bản hay ngôn bản. 5. KẾT LUẬN Tóm lại, vấn đề về lỗi diễn đạt rời rạc, dài dòng, lủng củng hoặc ngắn ngủn, khô khan, không mạch lạc chiếm đa số trong các bài luận của sinh viên Việt Nam viết tiếng Anh là một trong những vấn đề đáng được quan tâm nghiên cứu để có những biện pháp giúp họ khắc phục và tạo lập văn bản có hiệu quả hơn về mặt học thuật. Hơn nữa, mức độ nhận định về mạch lạc của một văn bản chủ yếu tuỳ thuộc vào khả năng tư duy, thái độ tình cảm, trình độ hiểu biết và kiến thức nền của người đọc. Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố cơ bản khác giúp người đọc/người nghe xác định được chuỗi câu mạch lạc và chuỗi câu không mạch lạc. Do đó, việc giảng dạy cho người học hiểu tầm quan trọng của vấn đề mạch lạc và viết diễn đạt trôi chảy để tạo sự rõ ràng cho một văn bản là vô cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người dạy phải có cái nhìn có hệ thống về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc. Do đó, mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo các mô hình tầng bậc, mô-đun và tích hợp trong phạm vi quan điểm Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar) có mối tương quan đến đường hướng Ngữ pháp chức năng. Tuy có những giống nhau rõ ràng giữa mô hình của Hengeveld, Kroon và Dik, nhưng cũng có những khác biệt đáng lưu ý. Ý niệm về đường hướng tiếp cận theo mô-đun dường như được nêu rõ trong nghiên cứu của Dik (1977, tr. 409), trong khi đó, đường hướng tiếp cận theo thứ bậc về diễn ngôn và ngữ pháp được xem là tách biệt mặc dù chúng quan hệ và kết cấu diễn ngôn được xem là chứa các thứ bậc biểu trưng và liên nhân. Kroon tách biệt rõ ràng hai thứ bậc này thành hai mô-đun tương đương dù quan hệ nhau, còn Hengeveld (1997, tr.1-16) mặc nhận một thứ bậc đơn gồm chín tầng lớp được nhóm thành ba cấp độ: tu từ (rhetorical), liên nhân (interpersonal) và biểu trưng (representational). Hơn nữa, Hengeveld còn miêu tả lại ngữ pháp trong phạm vi Ngữ pháp chức năng như là một 120 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đơn vị cấu thành của mô hình phát sinh ngôn ngữ học/mô hình khái niệm bao gồm cấp bậc liên nhân (interpersonal), biểu trưng (representational), và cấu trúc (structural)./. Tài liệu tham khảo: 1. Nunan, D. (1998), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Butler, D., et al (2000), Using Functional Grammar: An Explorer’s Guide. Sydney NSW: Macquaie Univeristy. 3. Brown, G. and Yule, G. (1983), Discourse Analysis. Cambridge: Cambridge University Press. 4. Connolly, J. H. (2004), “The Question of Discourse Representation in Functional Discourse Grammar”. In Machenzie, J. Lachlan/Gosmez- Gonza1lez, Mária de los A1ngeles (eds), pp.89-116. 5. Coulihard, M. (1977), An Introduction to Discourse Analysis. Longman, London. 6. Dik, S. C. (1977), The Theory of Functional Grammar. Part II: Complex and derived constructions (Functional Grammar Series 21). Edited by Kees Hengeveld. Berlin/New York: Mouton de Gruyter. 7. Feez, S. (1998), Text-based Syllabus Design. NCELTR, Sydney: Macquarie Univeristy. 8. Halliday, M.A.K. and Hasan, Ruqalya (1976), Cohesion in English. London: Longman. 9. Hengeveld, K. (1997), Cohesion in Functional Grammar. In Butler, Christopher S./ Connelly, John H./Gatward, Richard A./Vismans, Roel M. (eds) Discourse and Pragmatics in Functional Grammar. Mouton de Gruyter, Berlin/ New York, pp. 1-16. 10. Kroon, C. (1997), Discourse Markers, Discourse Structure and Functional Grammar. In Butler, Christopher S./Connolly, John H./Gatward, Richard A. and Vismans, Roel M. (eds). Discourse and Pragmatics in Functional Grammar, Mouton de Gruyter, New York, pp. 17-32. 11. Sinclair, J. and Coulihard, M. (1975), Toward an Analysis of Discourse, Oxford: Oxford University Press. APPROACHES TO COHERENCE IN ENGLISH WRITTEN DISCOURSE USING FUNCTIONAL GRAMMAR PHAN THI LE HOA Abstract: Coherence is considered one of the characteristics of effective writing. Coherence refers to the organization of written discourse of text by which all elements are clearly and logically connected to each other. There have been a variety of approaches which discuss on how to raise EFL learners’ awareness of importance of textual coherence. This article aims to briefly discuss charactersitics of some approaches using Functional Grammar on coherence in English written discourse. Specifically the paper discusses coherence and its relations explained in the scope of Functional Grammar; through which it tries to investigate some approaches on relations between grammar and discourse: Layering approaches, Modular approaches, Integrative approach: Functional Discourse Grammar in order to direct the teacher and learners to fully comprehending coherence in written discourse in a more systematic way. Keywords: written discourse, coherence, functional grammar Received: 17/01/2018; Revised:10/5/2018; Accepted for publication: 20/5/2018
File đính kèm:
- khnnqs_13_5_2018_111_120_phan_t_le_hoa_3449_2136279.pdf