Thực trạng tự học tiếng anh của sinh viên đại học trường đại học điều dưỡng Nam Định
Abstract: In this study, we find out the current situation and factors affecting the English selfstudy of university students at Nam Dinh University of Nursing. The research tool used is a survey
questionnaires for students and lecturers, with a live discussion with students and in-depth
interviews for teachers. The results show that the majority of students are not self-aware in English
self-study for many reasons and need to have synchronous measures to improve this situation.
Keywords: Self-study English, student, reality.
hợp tác và phát triển kĩ năng nghe, nói tốt tiếng Anh tốt hơn. 2.2.2. Thực trạng về các địa điểm thường được sinh viên sử dụng để thực hiện hoạt động tự học Biểu đồ 2 cho thấy, có 68,2% SV chưa bao giờ tới thư viện của nhà trường, trong khi thường xuyên tới chỉ có 1,4% và thỉnh thoảng là 30,4%. Khi thảo luận nhóm thì mặc dù thư viện có khá nhiều sách viết bằng tiếng Anh nhưng SV gặp khó khăn khi nghiên cứu. Điều này cũng đã được GV giảng dạy tiếng Anh nhận định, việc SV ít tới thư viện của nhà trường một phần vì các em chưa thực sự tự giác trong việc tự học. Ngoài ra, khi học tiếng Anh, SV cần phát âm, nghe và nói, mà điều kiện của thư viện nhà trường không cho phép. Nhìn vào biểu đồ, số SV tự học thường xuyên ở thư viện của tỉnh Nam Định là 0% và có đến 94,5% SV chưa đến thư viện của tỉnh bao giờ. Về việc thực hiện hoạt động tự học ở giảng đường thì có: 5,9% SV thường xuyên và 42,1% SV thỉnh thoảng, còn 52% SV chưa bao giờ chọn giảng đường để tự học. Do đó, địa điểm SV lựa chọn tự học nhiều nhất là ở nhà (chiếm 91,2%, là tổng tỉ lệ % SV thỉnh thoảng tự học và thường xuyên tự học ở nhà). 2.2.3. Thực trạng về nội dung tự học của sinh viên Bảng 2. Nội dung tự học tiếng Anh của SV Đặc điểm Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ n Tỉ lệ (%) n Tỉ lệ (%) n Tỉ lệ (%) Đọc sách tham khảo, nâng cao 10 2,1 192 39,4 285 58,5 Chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp 89 18,3 333 68,4 65 13,3 Ôn lại kiến thức cũ 59 12,1 362 74,3 66 13,6 Chỉ làm bài tập được giao 117 24 311 63,9 59 12,1 Tự viết bài thu hoạch 22 4,5 149 30,6 316 64,9 Tự kiểm tra, đánh giá 21 4,3 198 40,7 268 55 Biểu đồ 1. Hình thức tự học tiếng Anh của SV Biểu đồ 2. Địa điểm tự học tiếng Anh của SV 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ Tự học một mình Tự học theo nhóm Thư viện của trường Thư viện của tỉnh Nam Định Giảng đường Chỗ ở 1,4 0 5,9 25,730,4 5,5 42,1 65,568,2 94,5 52 8,8 Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 310-312; 221 312 Đối với nội dung tự học của SV, thì 100% GV đều có những tư vấn, hướng dẫn và giao nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên, theo bảng 2 thì tỉ lệ thường xuyên tham khảo sách ngoài giáo trình là rất thấp, chỉ có 2,1%. Tỉ lệ thường xuyên chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp, ôn lại kiến thức cũ, làm bài tập được giao sau mỗi buổi học cũng không cao, lần lượt chiếm 18,3%, 12,1% và 24%. Như vậy, việc tự học của SV nhằm chuẩn bị cho buổi học kế tiếp cũng như ôn lại kiến thức cũ không được quan tâm đúng mức, nhiều SV không có thói quen ôn bài, xem bài trước khi đến lớp. Thực trạng này dẫn đến việc SV thường rất thụ động, không có tính khám phá, năng động, sáng tạo, nên phương pháp giảng dạy lấy SV làm trung tâm chưa phát huy tốt hiệu quả. Theo các GV tiếng Anh, việc kiểm tra hoạt động tự học của SV còn chưa chặt chẽ, chưa có biện pháp hiệu quả. Tỉ lệ thường xuyên SV tự viết thu hoạch và tự kiểm tra, đánh giá là rất thấp (chiếm 4,5% và 4,3%), vì SV không cho rằng đây là hai hoạt động cần thiết trong việc tự học tiếng Anh. 2.2.4. Thực trạng về phương tiện, trang thiết bị hỗ trợ sinh viên tự học Với sự bùng nổ công nghệ thông tin, việc tự học càng trở nên dễ dàng hơn đối với SV, nhất là môn Tiếng Anh. Nhìn chung, tỉ lệ SV thường xuyên sử dụng phương tiện, trang thiết bị hỗ trợ việc tự học là rất thấp, trong khi tỉ lệ SV chưa bao giờ sử dụng các trang, thiết bị đó lại khá cao (xem bảng 2). Kết quả này phù hợp với thực trạng các SV chủ yếu tự học tại nơi ở như đã đề cập ở trên. Việc tham gia các hoạt động ở câu lạc bộ Tin học - Ngoại ngữ của Trường thì chỉ có 4,6% SV tham gia thường xuyên, 17% thỉnh thoảng và có đến 78,4% là chưa bao giờ. 2.3. Một số kiến nghị Để nâng cao hiệu quả tự học cho SV Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau: *Đối với nhà trường: - SV cần được tạo điều kiện sử dụng các phương tiện như máy tính, mạng internet,... để việc tự nghiên cứu, tự học tiếng Anh hiệu quả hơn. Vì vậy, nhà trường cần duy trì phát wifi miễn phí cho khu vực nhà trường và kí túc xá, đảm bảo cho SV có thể truy cập internet phục vụ quá trình tự học. - Bổ sung thêm tài liệu tiếng Anh cơ bản cũng như tiếng Anh chuyên ngành phù hợp với ngành đang đào tạo vào thư viện để hỗ trợ SV có thể tự trau dồi các kĩ năng: nghe, nói, đọc viết. * Đối với GV: - Sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, cũng như hướng dẫn phương pháp tự học cho SV, xác định và giao nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu thường xuyên cho các em, với mục tiêu và yêu cầu rõ ràng, cụ thể; cung cấp thêm cho các em tài liệu và giới thiệu, hướng dẫn cách tìm tài liệu và xử lí thông tin, kết hợp kiểm tra, đánh giá SV trong suốt quá trình tự học. * Đối với SV: - Ngay từ những ngày đầu học tập cần xây dựng động cơ, thái độ học tập nghiêm túc; chủ động xác định mục tiêu, kế hoạch tự học môn Tiếng Anh một cách cụ thể và tự kiểm tra, đánh giá quá trình tiến bộ của bản thân, thường xuyên trao đổi với thầy cô, với bạn để tìm ra phương pháp tự học có hiệu quả nhất; nỗ lực tiếp cận các nguồn tài liệu không chỉ có trong nhà trường mà còn từ các nguồn khác ngoài nhà trường, tổ chức học theo nhóm để có thể chia sẻ tài liệu với nhau, ứng dụng công nghệ thông tin như facebook, zalo, vào hỗ trợ quá trình tự học. 3. Kết luận Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Việc phát triển năng lực tự học nói chung và năng lực tự học tiếng Anh nói riêng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Để khắc phục những bất cập trong việc tự học của SV Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, chúng tôi cho rằng cần có nhiều biện pháp đồng bộ, có sự phối kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa nhà trường, GV và các SV. (Xem tiếp trang 221) Bảng 2. Các phương tiện, trang thiết bị hỗ trợ SV tự học Đặc điểm Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ n Tỉ lệ (%) n Tỉ lệ (%) n Tỉ lệ (%) Trên website 28 5,7 271 55,6 188 38,6 Ti vi, radio 35 7,2 278 57,1 174 35,7 Truyện, tiểu thuyết, báo chí bằng tiếng Anh 17 3,5 179 36,8 291 59,7 Câu lạc bộ tiếng Anh 22 4,6 83 17 382 78,4 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 221 Hoạt động 5. Tổ chức cho HS gấp hình (chẳng hạn như dưới đây). Yêu cầu: Gấp mảnh giấy để tạo ra góc vuông (Gấp cái ê ke) Hình 6 3. Kết luận Muốn triển khai tốt trong thực tiễn việc dạy học các môn học theo tiếp cận phát triển NL cho HS, đạt mục tiêu đổi mới giáo dục phổ thông cần tiếp tục tìm hiểu không chỉ nội dung các mạch kiến thức, nội dung các môn học mà còn cần thiết tìm hiểu các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá kết quả học tập, thiết bị dạy học, cơ sở vật chất đi kèm. Mục tiêu, nội dung chương trình là yếu tố đầu tiên quyết định thành công của chương trình, tìm hiểu nội dung chương trình để thấy những điểm mới, những yêu cầu của chương trình từ đó tiếp tục tìm hiểu các yếu tố còn lại, xác định những nội dung dạy học cụ thể trong mỗi tiết học. Qua tìm hiểu tin tưởng chương trình và nội dung môn học đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông. Tài liệu tham khảo [1] Clements, D. H. (1999).”Geometric and spatial thinking in young children”. In J. V. Copley (Ed.), Mathematics in the early years, Reston, VA: National Council of Teachers of Mathematics, pp. 66-79. [2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán. [3] Hoàng Phê (2018). Từ điển Tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học. [4] Van Hiele, Piem M (1984). A Child's Thought and Geometry. National Science Foundation, Washington D.C [5] Cobb, P., - Steffe, L. P. (1983). The constructivist researcher as teacher and model builder. Journal for Research in Mathematics Education, Vol. 14, pp. 83-94. [6] William F. Burger - J. Michael Shaughnessy (1986). Characterizing the van hiele levels of development in geometry. Journal for Research In Mathematics Education (1986), Vol. 17 (1), pp. 31-48. [7] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm. [8] Đỗ Đức Thái - Đỗ Tiến Đạt - Nguyễn Hoài Anh - Trần Ngọc Bích - Đỗ Đức Bình - Hoàng Mai Lê - Trần Thúy Ngà (2018). Dạy học phát triển năng lực môn Toán tiểu học. NXB Đại học Sư phạm. THỰC TRẠNG TỰ HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 312) Tài liệu tham khảo [1] Candy, P. (1988). On the attainment of subject- matter autonomy. In D. Boud (Ed.). Developing student autonomy in learning (2nd Edition). New York: Kogan, pp. 59-76. [2] Lê Viết Chung (2018). Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Cảnh Sát Nhân dân. Tạp chí Khoa học Giáo dục - Cảnh sát Nhân dân, số tháng 6. [3] Lê Thị Hồng Lam (2013). Hoạt động tự học Tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 11, số 4, tr 574-581. [4] Nguyễn Cảnh Toàn (1999). Luận bàn và kinh nghiệm tự học. NXB Giáo dục. [5] Aoki, N. - R. Smith (1999). Learner autonomy in cultural context: the case of Japan. [6] Dam, L. (1995). Learner Autonomy 3: From Theory to Classroom Practice. Dublin: Authentik. [7] Little, D. (1991). Learner autonomy: Definition, issue and problem, Dublin: Authentic. [8] Littlewood, W. (1997). Self-access: why do we want it and what can it do?. In P. Benson & P. Voller(Eds). Autonomy and independence in language learning, New York: Longman, pp. 79-92 [9] Rhoads, K., - DeHaan, J. (2013). Enhancing student self-study attitude and activity with motivational techniques. Studies in Self-Access Learning Journal, Vol. 4(3), pp. 175-195. [10] Rubakin. N.A (1982). Tự học như thế nào. NXB Thanh niên. [11] Hồ Ngọc Đại (2002). Tâm lí học dạy học. NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- 62vu_minh_duc_pham_thi_hoang_ngan_6695_2148434.pdf