Phương pháp biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại học viện khoa học quân sự

Trước sự phát triển của lý luận dịch nói cũng như yêu cầu thực tiễn, việc biên soạn giáo trình dịch

nói tiếng Trung Quốc không còn đơn thuần là dựa trên một mô hình giáo trình có sẵn, mà phải xác

định rõ cơ sở lý luận, tìm tòi mô hình, từ đó đưa ra định hướng về phương pháp. Bài viết đi sâu

phân tích lý luận về dịch nói, lấy thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá trình động là

nền tảng quan trọng, có tính khả thi cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo trình dịch nói.

Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc và phân tích, bài viết đưa ra các định hướng về phương pháp

cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm:

xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa

chọn và tổ chức ngữ liệu. nhằm đảm bảo chất lượng và tính khoa học của giáo trình.

pdf9 trang | Chia sẻ: phuthai499 | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại học viện khoa học quân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tiên phải 
phân tích kỹ trình độ và nhu cầu của người học. 
Không lựa chọn ngữ liệu ở lĩnh vực quá chuyên 
sâu có nhiều thuật ngữ chuyên ngành, hoặc lĩnh 
vực quá mới mẻ với người học. Một biện pháp 
nữa để xác định độ khó cho phù hợp và thông qua 
việc làm đáp án. Trong quá trình làm đáp án, người 
biên soạn có thể phát hiện ra những điểm khó, 
thách thức cao với người học. Đối với các điểm 
khó ngôn ngữ mang tính thách thức với người học 
trong nguyên văn cần được xuất hiện trong các 
phần mang tính phụ trợ để người học có thể chuẩn 
bị trước. Đối với các điểm khó về tư duy song ngữ, 
tư duy chuyển đổi cần trở thành các điểm trọng 
tâm giảng giải trên lớp.
Ngữ liệu dùng cho dịch nói đa số là các file 
hình ảnh và âm thanh. Một yêu cầu đặt ra cho việc 
lựa chọn là chất lượng của âm thanh và hình ảnh, 
đặc biệt là chất lượng âm thanh. Yêu cầu âm thanh 
phải rõ ràng, đảm bảo người nghe phải nghe được. 
Tùy theo yêu cầu của từng nội dung rèn luyện mà 
người biên soạn phải biên tập lại các file âm thanh 
và hình ảnh này như điều chỉnh tốc độ nói, cho 
thêm tạp âm Trong dịch đuổi, với nội dung dịch 
diễn thuyết, người nói thường nói liền trong một 
khoảng thời gian khá dài, người biên tập phải tách 
ra thành các đoạn nhỏ và có khoảng thời gian dừng 
để cho người học tập dịch. Việc biên tập thành các 
đoạn nhỏ này phải dựa trên cơ sở mạch ý hoặc 
lôgic của người nói, cần tách thành những đoạn 
nhỏ có ý trọn vẹn, phù hợp với tư duy của người 
nói, đồng thời phải phù hợp với khả năng nghe, ghi 
nhớ, chuyển đổi ngôn ngữ của đối tượng người học. 
Ngữ liệu nên mang tính thời sự, nên là các nội 
dung có liên quan đến các vấn đề “nóng” đang diễn 
ra, có lợi cho việc thu nhận và phân tích thông tin 
của người học, đặc biệt là với việc khởi động công 
năng tri nhận và sử dụng kiến thức ngoài ngôn ngữ 
để lý giải thông tin. Tính thời sự ở đây không hẳn 
là thời gian đưa ra thông tin mà chủ yếu chỉ đây là 
vấn đề nóng thu hút nhiều sự quan tâm, người học 
ít nhiều cũng đã có những hiểu biết nhất định làm 
bối cảnh cho việc dịch thông tin.
Ngữ liệu cần thể hiện tính hoàn chỉnh của nội 
dung phát ngôn. Đa số các ngữ liệu sẽ được biên 
soạn lại tạo độ ngừng cho người dịch, việc ngừng 
ngắt không được tạo ra trở ngại cho việc lý giải. 
Do đó nên lựa chọn các ngữ liệu có nội dung mạch 
lạc, các tầng bậc ý nghĩa có cấu trúc rõ ràng, các 
đơn vị diễn ngôn trọn vẹn.
Ngữ liệu cần phục vụ trực tiếp cho công việc 
của người học sau khi tốt nghiệp. Học viên Học 
viện Khoa học Quân sự sau khi ra trường, nếu có 
làm công việc liên quan đến dịch nói thì chủ yếu 
là dịch nói cho hoạt động đối ngoại, thăm viếng 
quốc phòng, các hoạt động tuần tra chung, giao 
lưu biên phòng, các buổi hội thảo, hội đàm, bồi 
dưỡng nghiệp vụ Do đó cần ưu tiên lựa chọn 
ngữ liệu về các nội dung này.
77KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 12 - 3/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
3.3.2. Nguyên tắc tổ chức ngữ liệu
Có thể phân ngữ liệu thành bốn hình thức chính 
là ngữ liệu phục vụ cho việc minh họa các kỹ năng, 
ngữ liệu phục vụ cho thiết kế bài tập, ngữ liệu phục 
vụ cho việc cung cấp bối cảnh và kiến thức ngôn 
ngữ liên quan đến bài dịch chính, ngữ liệu phục vụ 
cho việc biên soạn bài dịch chính.
Ngữ liệu còn có thể phân thành ngữ liệu dưới 
dạng băng hình, ngữ liệu dạng viết và ngữ liệu 
“sống”. Ngữ liệu dưới dạng băng hình cần được tổ 
chức trước các ngữ liệu dạng viết, ngữ liệu dạng 
viết cần đưa vào giai đoạn cuối cùng. Lý do là vì 
các kỹ năng nghe, hiểu và biểu đạt là kỹ năng cơ 
bản nhất của dịch nói, người học khi bắt đầu vào 
học dịch nói, khi còn chưa nhận thức được đầy 
đủ quy trình dịch nói cũng như các bước nghe lấy 
thông tin, phân tích để hiểu thông tin, biểu đạt lại 
thông tin sang ngôn ngữ đích mà đã tiếp xúc với 
hình thức dịch nói văn bản sẽ hình thành nên thói 
quen ỷ lại vào văn bản, dẫn đến kiểu dịch từng câu 
từng chữ hoàn toàn khác với bản chất của dịch nói. 
Ngữ liệu dạng viết lại được chia thành hai dạng, 
dạng thứ nhất là công cụ phụ trợ, người dịch vẫn 
phải theo sát lời nói của người nói, bởi rất có thể 
người nói sẽ đi sâu phân tích một ý nào đó, thậm 
chí bỏ qua một vài chỗ nào đó, hoặc nói không theo 
bài đã được chuẩn bị. Còn một hình thức nữa đó 
là nói lại văn bản, tức không có người nói, người 
dịch dịch trực tiếp các nội dung đọc được từ văn 
bản. Ngữ liệu phục vụ cho hình thức dịch này cũng 
được tổ chức vào dạng ngữ liệu dịch dạng viết. 
Ngữ liệu băng hình là chủ yếu song cũng không 
nên chiếm toàn bộ dung lượng giáo trình, chỉ nên 
để ở mức khoảng 60%, ngữ liệu dạng viết khoảng 
20%, số còn lại là ngữ liệu “sống” khoảng 20%.
Ngữ liệu “sống” còn được gọi là ngữ liệu mở, 
là phần ngữ liệu đảm bảo cho tính chất giao tiếp 
của dịch nói được thể hiện rõ nhất. Bản chất của 
dịch nói là hoạt động giao tiếp, mà “giao tiếp là 
sự truyền đạt điều muốn nói từ người này sang 
người khác để đối tượng có thể hiểu những thông 
điệp được truyền đi, nó không chỉ đơn thuần là 
việc truyền thụ ý muốn nói mà còn bao hàm cả 
việc hiểu được những ý đó nữa” (Bùi Anh Tuấn, 
2009). Như vậy, có ba điểm cần lưu ý trong khái 
niệm về giao tiếp: thứ nhất, đó là sự trao đổi hai 
chiều; thứ hai, có ít nhất hai đối tượng tham gia 
vào quá trình giao tiếp; thứ ba, thông tin phải 
được hai bên hiểu rõ. Nếu thiếu một trong ba 
yếu tố này thì việc giao tiếp chưa hoàn chỉnh.
Để người học trên vai trò người dịch có thể chủ 
động điều hành giao tiếp với tư cách là nhân vật 
trung gian, ngữ liệu đưa ra cần có đầy đủ các yếu 
tố người nói, người nghe và quá trình truyền đạt 
thông tin. Ngữ liệu này có thể là một bài phát biểu 
hay một kịch bản đàm phán được thể hiện ngay 
trên lớp. Ngữ liệu này có thể giao cho người học 
sưu tầm và chuẩn bị trước trong vai trò người phát 
ngôn, cũng có thể giao cho người học viết kịch 
bản. Trong giáo trình, dạng ngữ liệu này sẽ được 
trình bày dưới các nội dung mang tính chất hướng 
dẫn về chủ đề và các nội dung liên quan, như kịch 
bản buổi đàm phán về hợp tác giáo dục giữa một 
trường đại học của Việt Nam và một trường đại học 
của Trung Quốc thì đầu tiên phải là các nội dung 
chào mời, giới thiệu đại biểu, tiếp đến là các nội 
dung giới thiệu về trường, đặc biệt là các thế mạnh 
của từng trường, tiếp đến đi tới bàn bạc về một vài 
lĩnh vực có thể hợp tác, bàn bạc về phương án hợp 
tác và cuối cùng là thống nhất để đi đến ký kết văn 
bản hợp tác... Trên thực tế rất khó có thể tìm được 
một kịch bản đã viết bằng hai thứ tiếng nên việc 
chỉ đạo cho người học tự viết là khâu vô cùng quan 
trọng. Việc sử dụng ngữ liệu “sống” này có vai trò 
rất lớn trong việc kéo gần hoạt động “kiểu dịch 
học đường” với hoạt động dịch trong thực tiễn, do 
đó nên đưa vào các bài rèn luyện tổng hợp.
4. KẾT LUẬN
Cơ sở lý luận cho việc biên soạn giáo trình 
dịch nói tiếng Trung Quốc được xây dựng trên 3 
nền tảng: lý luận về dịch nói, lý luận giảng dạy 
dịch nói và lý luận biên soạn giáo trình ngoại ngữ. 
Bài viết đi sâu nghiên cứu lý luận về dịch nói, lấy 
thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá 
trình động là nền tảng quan trọng, có tính khả thi 
cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo 
trình dịch nói. Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc 
và phân tích, bài viết đã đưa ra các định hướng 
78 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung 
Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm: 
xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa 
ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa 
chọn và tổ chức ngữ liệu... Việc xác định phương 
pháp biên soạn hợp lý không chỉ có vai trò quan 
trọng quyết định đến chất lượng của giáo trình, 
phù hợp với đối tượng dạy học, mà còn góp phần 
bảo đảm tính khoa học, hiện đại và bắt kịp xu thế 
phát triển của giáo trình./.
Ghi chú:
1. Thuyết Cảm ý (Theory of Sense) còn được 
gọi là thuyết Dịch thuật diễn giải (Interpretive 
Theory of Translation, hay La theorie interpretative 
de la traduction, nguyên văn trong Pháp ngữ, 释意
理论 trong tiếng Trung Quốc)
2. Bell, R. T (1991), Translation and translating 
theory and practice, London and New York: 
Longman. Dẫn theo 吴爱俊(2011),从过程
化视角探索口译教材新编写模式,北京第二外
国语学院。
Tài liệu tham khảo:
1. Phan Vũ Tuấn Anh (2013), Giáo trình Phiên 
dịch Trung - Việt đối ngoại, Học viện Ngoại giao, 
Hà Nội.
2. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng dẫn kỹ 
năng phiên dịch Anh – Việt & Việt – Anh, NXB 
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
3. Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do, 
NXB Hồng Đức, Hà Nội.
4. Bùi Anh Tuấn (2009), Hành vi tổ chức, NXB 
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
5. 刘和平(2003),口译技巧—思维科学
与口译推理教学法,中国对外翻译出版公司,
北京。
6.吕俊(2002),翻译学应该从解构主义
那里学些什么,外国语,第5期。
7.赛莱丝科维奇著,黄为沂,钱慧杰译
(1992),口译技艺:即席口译与同声传译经
验谈,上海翻译出版公司,上海。
8. 王瑞昀(2004),口译的认知与口译教
材的编写—跨学科口译理论在《英语口译教
程》编写中的应用,中国翻译,第7期。
METHODS FOR COMPILING CHINESE INTERPRETING TEXTBOOKS
AT MILITARY SCIENCE ACADEMY
TONG VAN TRUONG
Abstract: Developments in interpreting theories and requirements of reality have proved that 
the work of compiling Chinese interpreting textbooks cannot any longer result from existing 
models but should be based on convincing theories, new models and directing methods. For that 
reason, this article focuses on analyzing interpreting theories and claims that the Theory of Sense 
and the school considering interpreting as an active process are important basis for compiling 
interpreting textbooks. The article then suggests method directions for compiling Chinese 
interpreting textbooks at Military Science Academy including: defining aims and requirements of 
the compilation; specifying strutures of textbooks; collecting and collocating linguistic data to 
make sure that completed textbooks are well scientific and qualified. 
Keywords: Chinese interpreting textbooks, compiling method(s), direct
Received: 04/01/2018; Revised: 06/02/2018; Accepted for publication: 28/02/2018

File đính kèm:

  • pdfkhnnqs_12_3_2018_70_78_tong_van_truong_4596_2136225.pdf