Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường đại học sư phạm Hà nội khi học dạng bị động tiếng pháp và giải pháp trong giảng dạy
Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng
Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững
những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối
phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng
ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên
khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.
p của sinh viên Việt nam học tiếng Pháp đó là người học chưa phân biệt được câu chủ động và câu bị động đặc biệt là phân biệt câu chủ động có động từ chia ở quá khứ với trợ động từ être với câu bị động. Để phân biệt hai dạng này, chúng ta có thể dựa vào những dấu hiệu như sau: - Thứ nhất, trong câu chủ động, chủ ngữ làm ra hành động trong khi trong câu bị động, chủ ngữ chịu tác động của hành động do bổ ngữ tác nhân gây ra. Ví dụ: Nous sommes rentrés tard à la maison. (Pa). Nous sommes trompés par ce garçon-là. (Pp). - Thứ hai, trong cấu trúc bị động, thời của động từ phụ thuộc vào thời động từ “être” chứ không phụ thuộc vào sự kết hợp giữa “être + PP” như trong câu chủ động. 53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Ví dụ: Il est admis à l’école. (Pp chia thời hiện tại) Il a été admis à l’école. (Pp chia thời quá khứ) Elle est allée travailler en France (Pa chia thời quá khứ kép) Elle était allée travailler en France. (Pa chia thời tiền quá khứ). - Thứ ba, về mặt hình thức và ngữ nghĩa, những yếu tố tạo nên cấu trúc bị động thì khá độc lập với nhau: trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ được dùng với tư cách là tính ngữ (tức là không có động từ “être”) và có giá trị bị động như cấu trúc này. Ví dụ: Une lettre est écrite = Une lettre écrite La moto a été réparée = La moto réparée. Trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ này có thể được thay thế bằng đại từ nhân xưng trung lập “le”. Ví dụ: Tu es aimé de tout le monde, tu l’es vraiment. Ngoài ra, khác với hình thái về thời gian, quá khứ phân từ có thể đứng trước động từ “être”. Ví dụ: “Aimé, tu l’étais.” Khi quan sát những ví dụ trên, những yếu tố cấu trúc bị động không thể tạo ra đơn vị phân tích giống như dạng thức kép của động từ chủ động. Dạng thức này đặc trưng bởi sự kết hợp chặt chẽ của những thành tố. Ví dụ: Mon père est arrivé Người ta không nói: Mon père arrivé. Đối với câu “Il est arrivé” quá khứ phân từ không thể thay bằng đại từ le hoặc đứng trước trợ động từ être. Người ta không nói: Il l’est hoặc Arrivé, il l’est. - Cuối cùng, về mối quan hệ biến đổi, dạng bị động “être + PP” là kết quả của một sự chuyển đổi từ mệnh đề chủ động. Trong khi dạng thức kép “être + PP” thể hiện mệnh đề chủ động. Cấu trúc này không phải là kết quả của bất cứ sự biến đổi nào. Ví dụ: Ce pont a été construit en 1990. Câu này được chuyển từ câu “On a construit ce pont en 1990.” Trong khi câu “Je suis sortie avec mes amis.” không phải là sự chuyển đổi từ bất cứ một câu nào. Trên đây là bốn tiêu chí giúp cho người học phân biệt câu chủ động chia ở quá khứ với trợ động từ être và câu bị động với trợ động từ être. 4.4. Xác định rõ thành phần của câu trước khi chuyển từ câu chủ động sang bị động hoặc ngược lại. Một nguyên nhân khác khiến sinh viên chuyển sai câu chủ động sang bị động, đó là xác định sai thành phần của câu. Vì vậy, giảng viên cần yêu cầu sinh viên xác định rõ thành phần của câu trước khi chuyển đặc biệt thành phần chủ ngữ, bổ ngữ trực tiếp trong câu chủ động và tác nhân trong câu bị động. Việc này giảng viên cũng thường không yêu cầu sinh viên vì họ nghĩ rằng, đây là vấn đề đơn giản. Nhưng thực tế, không ít sinh viên chuyển sai vì không xác định được thành phần của câu. 4.5. Các hiện tượng ngữ pháp cơ bản phải thường xuyên được củng cố trong suốt quá trình học. Để học tốt dạng bị động, người học phải nắm vững rất nhiều các hiện tượng ngữ pháp khác. Nhưng thực tế các sinh viên thường không nhớ hết các hiện tượng ngữ pháp đã học. Chính vì vậy, khi học một hiện tượng ngữ pháp mới giảng viên cần giúp các em ôn lại những hiện tượng ngữ pháp có liên quan. Ví dụ khi học về câu bị động, sinh viên bắt buộc phải nắm vững một số các hiện tượng ngữ pháp cơ bản sau: thời thức của động từ, đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, hợp giống số của phân từ quá 54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY khứ Nói tóm lại các vấn đề ngữ pháp phải thường xuyên được củng cố, nhắc lại và nâng cao trong suốt quá trình học ngoại ngữ. 4.6. So sánh câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp Hiện nay, hầu như sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp đều là sinh viên được xét tuyển từ tổ hợp Anh, Toán, Ngoại ngữ, có nghĩa là họ đã học tiếng Anh ít nhất 3 năm ở phổ thông và tiếng Anh là một trong ba môn xét tuyển vào đại học. Như vậy, họ đã đạt được một trình độ tiếng Anh tương đối tốt. Tiếng Anh và tiếng Pháp có chung nguồn gốc là cùng thuộc hệ ngôn ngữ Latinh nên hai thứ tiếng này có rất nhiều điểm tương đồng về mặt từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Đây là một lợi thế cho những người đã biết tiếng Anh học tiếng Pháp (Nguyễn Thị Dương Nga, 2017, tr.16). Dạng bị động của tiếng Anh có khá nhiều điểm giống tiếng Pháp, nhất là vấn đề liên quan đến thời trong câu bị động trong khi đó, vấn đề này trong tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. Nhờ đặc điểm này chúng tôi xin đưa ra một đề xuất như sau: đối với những sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, họ đã hiểu rõ cách dùng dạng bị động trong tiếng Anh, vì vậy, giảng viên có thể chỉ cho họ những điểm giống nhau của dạng bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Ví dụ : Câu chủ động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Anh Cấu trúc SN1 + V + SN2 SN2 + être + PP (participe passé) + par/de +SN1 SN2 + to be + PP (past participle) + by +SN1 Thời, thức của động từ V(présent) V(passé composé) V(imparfait) V(plus-que-parfait) V(futur simple) V(conditionnel présent) V(conditionnel passé) être (présent) + PP être (passé composé) + PP être (imparfait) + PP être (plus-que-parfait) + PP être ( futur simple) + PP être (conditionnel présent)+ PP être (conditionnel passé) + PP to be (simple present) + PP to be (simple past) + PP to be (past continuous) + PP to be (past pefect) + PP to be (simple future) + PP to be (present conditionnel + PP to be (past conditionnel) + PP Bằng cách so sánh này sinh viên đã học tiếng Anh sẽ hiểu về dạng bị động tiếng Pháp một cách dễ dàng hơn. 4.7. Chú ý những nét khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Việt trong khi dịch. Vấn đề dịch thuật, sinh viên thường quá lệ thuộc vào cách diễn đạt tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Sở dĩ như vậy vì người học chưa thấy rõ được những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Vì vậy trong quá trình giảng dạy giảng viên cần phải so sánh đối chiếu hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn ngữ. Nếu được phân tích kỹ những nét tương đồng và khác biệt giữa dạng bị động tiếng Pháp và lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt thì người học sẽ thấy rằng, không nhất thiết cứ phải chuyển một câu bị động của tiếng Pháp thành lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt. Trong những trường hợp phải chỉ rõ bổ ngữ tác nhân thì khi dịch sang tiếng Việt cũng không nhất thiết phải dùng cấu trúc có sự tham gia của từ bởi mà người học có thể dùng cấu trúc có từ do, vì. 55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Il est épuisé par ses voyages incessants. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77) Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) Còn trong những trường hợp cần thể hiện sự đánh giá của người nói đối với tác động của hành động lên đối tượng thì người học phải có sự cân nhắc giữa cấu trúc có các từ bị và được. 5. KẾT LUẬN Dạng bị động trong tiếng Pháp là một hiện tượng ngữ pháp tương đối khó. Để học tốt dạng bị động đòi hỏi người học phải nắm vững khá nhiều các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Trong khi đó, sinh viên khoa tiếng Pháp hầu như chưa được học tiếng Pháp ở bậc phổ thông nên việc nắm chắc tất cả các hiện tượng ngữ pháp không phải là dễ đối với các em. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu này với hy vọng nó sẽ là một tài liệu hữu ích cho giảng viên và sinh viên khoa tiếng Pháp nhằm giúp cho giảng viên có những phương pháp giảng dạy thích hợp, còn sinh viên nhận ra lỗi của mình và có thể tránh được các lỗi đó trong quá trình học dạng bị động tiếng Pháp./. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Dũng (2005), 350 exercices (Niveau supérieur1), Bản dịch từ tiếng Pháp, NXB Thanh niên, TP Hồ Chí Minh. Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm trung tâm: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số 96, tr.1-5. Trần Hương Lan, Trần Thị Hoàng Minh (2011), So sánh dạng bị động trong tiếng Pháp và trong tiếng Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Thị Dương Nga (2017), “Mạo từ trong tiếng Pháp và tiếng Anh - Một số lưu ý trong giảng dạy môn ngoại ngữ 2 tiếng Pháp cho học viên, sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Học viện Khoa học Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 07, tr.16-25. Cardiot-Cueilleron J. et autres (1992), 350 exercices (Niveau supérieur1), Hachette, Paris. Grévisse M. (1988), Le Bon Usage – 3è édition, Duculot, Paris. Morsel M.H. et autres (1993), L’exercisier, Grenoble. A STUDY ON THE DIFFICULTIES IN LEARNING THE FRENCH PASSIVE VOICE ENCOUNTERED BY THE STUDENTS AT HANOI NATIONAL UNIVERSITY OF EDUCATION AND SEVERAL SUGGESTIONS TO TEACHING METHODS TRAN HUONG LAN Abstract: Grammar plays an important role in learning a language in general and in learning French in particular. To learn French well, besides many other factors, the learner must first master basic grammatical phenomena. One of the most basic and popular grammatical phenomena in French is the passive voice. During the process of teaching, we realize that students often have to face a lot of difficulties in learning this grammatical phenomenon. This report aims to analyse the common difficulties of students in learning passive voice, as well as identify the reasons and then propose some suggestion to improve teaching methods. Keywords: passive voice, grammatical teaching methods, translation Received: 19/11/2017; Revised: 13/12/2017; Accepted for publication: 30/12/2017
File đính kèm:
- tckhnnqs_15_9_2018_tran_huong_lan_47_55_3056_2136130.pdf