Một vài suy nghĩ về diễn ngôn sư phạm trong giảng dạy Tiếng Pháp
TÓM TẮT
Xuất phát từ những thông tin quan sát được trên thực tế, tác giả trình bày những suy nghĩ của mình về
việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trên lớp. Trước hết, bài viết điểm lại quá trình hình thành của khái
niệm diễn ngôn sư phạm, sau đó đề cập các chức năng của loại diễn ngôn này theo lý thuyết về hành
vi ngôn ngữ của Austin. Song song với việc trình bày lý thuyết, tác giả đưa ra các khuyến cáo dựa trên
các kết quả dự giờ của giảng viên Việt Nam và Pháp với hy vọng việc làm này sẽ có ích cho việc đổi mới
phương pháp giảng dạy tiếng Pháp.
ng tin cho người học (informateur); Tổ chức các hoạt động sư phạm (meneur de jeu); Đánh giá (évaluateur) (Dabène L., 1984). Ba chức năng này tạo ra cấu trúc giao tiếp trong lớp học ngoại ngữ và được thực hiện thông qua một loạt các hoạt động siêu ngôn ngữ thể hiện qua DS. Chức năng thông tin, liên quan đến việc truyền tải kiến thức, bao gồm kiến thức về ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) và kiến thức về văn hóa. Ngày nay kiến thức văn hóa rất được chú trọng; văn hóa là tất cả những gì tạo nên nét riêng của một cộng đồng như phong tục tập quán, cách sinh hoạt, tác phẩm văn học, công trình kiến trúc,... Tất cả những điều đó cần được thể hiện từng bước trong bài học thông qua DS. Chức năng tổ chức, dẫn dắt được thực hiện thông qua việc quản lý các hoạt động sư phạm và điều tiết lời nói. Có thể nêu ba thao tác chính: thao tác điều tiết (opérations de ponctuation de l‘échange), thao tác kích ngôn (opérations d‘incitation à la prise de parole) và thao tác cảnh báo (opérations de mise en garde). Trong các thao tác trên, việc dẫn dắt người học đi vào nội dung bài, phát hiện kiến thức mới là rất quan trọng. Ngày nay việc dạy học không còn một chiều theo cách thầy giảng trò nghe, mà là hướng dẫn người học tự khám phá kiến thức. Lời nói của giảng viên phải đi theo hướng gợi mở, dẫn dắt như: Pour comprendre l’idée principale du texte, basez-vous sur les mots en gras (để hiểu được ý chính của bài hãy dựa vào những từ in đậm); hoặc Vous êtes dans la bonne voie, continuez (các em đi đúng hướng rồi, tiếp tục đi). Về chức năng đánh giá, như ta đã biết mọi giao tiếp trong lớp học đều được thực hiện qua tam giác sư phạm gồm ba yếu tố: giảng viên hỏi (Question), sinh viên trả lời (Réponse), giảng viên kết thúc bằng việc đánh giá (Évaluation). Công việc đánh giá rất quan trọng vì nó kết thúc một đoạn giao tiếp và mở ra một đoạn mới. Nó thường được tiến hành thông qua ba thao tác: đánh giá (opération évaluative), điều chỉnh (opération corrective) và chuyển giai đoạn (ouverture sur un nouvel échange). Trước hết người dạy phải thể hiện quan điểm của mình trước sản phẩm của người học (khen hoặc chê, đồng ý hay không đồng ý), sau đó phải đưa ra các điều chỉnh tùy theo mức độ chính xác của sản phẩm, cuối cùng là thao tác chuyển sang một giai đoạn giao tiếp mới. Điều cần lưu ý ở đây là dù chất lượng sản phẩm do người học đưa ra như thế nào, việc đánh giá phải đi theo hướng tích cực. Phải coi những lỗi của người học là điều tất yếu, là thành tố tự nhiên của quá trình học tập. Lời nói của người dạy chủ yếu phải mang tính chất khen ngợi, động viên. Những câu như sau cần được thường xuyên sử dụng: Une excellente idée (Một ý tưởng tuyệt vời). 15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Vous avez raison (Em hoàn toàn có lý). Vous avez très bien compris, n’hésitez pas (Em đã hiểu rất đúng, đừng ngần ngại). 3.3. Chức năng bởi lời (perlocutoire) Chức năng bởi lời là chức năng tạo ra hiệu quả ở người nghe. Khi phát ra một phát ngôn, người nói luôn mong tạo ra ở người nghe một hiệu quả nào đó sau khi nghe lời nói của mình. Chức năng bởi lời ở đây khác với chức năng tại lời ở trên. Khi nói Maintenant, nous allons commencer la séance, ouvrez le livre à la page X (Bây giờ chúng ta bắt đầu bài học, mở sách ra ở trang X), người dạy đã thực hiện một hành động tại lời. Đó là thông báo với lớp là buổi làm việc đã bắt đầu và yêu cầu người học mở sách ra ở trang X. Còn chức năng bởi lời là hiệu quả mà người học có được sau khi nghe câu đó. Có thể là vui mừng phấn khởi được bắt đầu một bài học mới, điều này có thể là do cách nói mạch lạc rõ ràng cộng với một vẻ mặt tươi vui của giáo viên; cũng có thể là buồn chán vì lại phải làm việc với một giáo viên mà họ không thích, lý do không thích là do phương pháp phi sư phạm cộng với một thái độ quá nghiêm khắc thể hiện qua DS. Các hiệu quả do chức năng bởi lời tạo ra tác động đến người nghe hết sức khác nhau, không có tính quy ước (Đỗ Thị Kim Liên, 2014). Chúng phụ thuộc vào ý đồ và thái độ của người nói và trạng thái tâm lý của người nghe. Trong bối cảnh của tình hình giảng dạy tiếng Pháp ở Việt Nam hiện nay (không còn được mở rộng như thời kỳ tổ chức Hội nghị cấp cao các nước nói tiếng Pháp năm 1997), người dạy cần tạo ra ở người học hai hiệu quả chính: hứng thú đối với bộ môn tiếng Pháp và khả năng tự chủ trong học tập. Phương pháp sư phạm thể hiện qua DS phải góp phần vào việc hình thành hai “hiệu quả” này. Hứng thú trong học tập có thể được tạo ra bằng nhiều cách: vị thế của môn học trong xã hội, nội dung sách giáo khoa, môi trường giảng dạy, phương pháp sư phạm, v.v. Ba yếu tố đầu nhìn chung vượt ra khỏi quyền quyết định của người dạy, chỉ có yếu tố thứ tư là nằm trong tầm kiểm soát của họ. Người dạy hoàn toàn có khả năng điều chỉnh phương pháp sư phạm thông qua DS của mình để nâng cao hứng thú của người học. Một cách ứng xử quá “cứng” như quở trách người học khi không làm bài tập trong ví dụ sau cần tránh. -: . Tu n’as pas fait l’exercice à la maison? Sinh viên: Non. -: Pourquoi non? Sinh viên: // -: Pourquoi non? Sinh viên: -: Parce que Sinh viên: -: En vietnamien / pourquoi tu n’as pas fait l’exercice à la maison? Sinh viên: -: Tu peux parler plus fort? Sinh viên: Hôm qua em có việc. - Hôm qua em có việc // La prochaine fois, il faut faire attention Bởi vì bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không / cho nên mình phải làm bài ở nhà nếu mình muốn hiểu cô / ça va? -: . Em đã không làm bài tập ở nhà? Sinh viên: Không ạ. -: Tại sao lại không? Sinh viên: // -: Tại sao lại không? Sinh viên: -: Bởi vì Sinh viên: -: Hãy nói bằng tiếng Việt / Tại sao em đã không làm bài tập ở nhà? Sinh viên: -: Em có thể nói to thêm được không? Sinh viên: Hôm qua em có việc. - Hôm qua em có việc // La prochaine fois, il faut faire attention Bởi vì bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không / cho nên mình phải làm bài ở nhà nếu mình muốn hiểu cô / ça va? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không làm bài tập, cũng có thể do khách quan hoặc chủ quan. Trong trường hợp này, trước hết người giảng viên phải có thái độ thông cảm, tìm cách giúp sinh viên hòa nhập vào bài mới. Điều toát lên từ đoạn “tra hỏi” trên là một sự quở trách với ý đồ làm mất thể diện của sinh viên trước lớp. Khi sinh viên không thể đưa ra một lời giải thích có giá trị, giảng viên yêu cầu “Em có thể nói to thêm được không?”, và cuối cùng kết thúc bằng việc tuyên bố trước lớp “Bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không”. Tất cả những việc đó không thuộc DS của giáo học pháp mới, cần loại bỏ. 16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 4. KẾT LUẬN Hình thành khả năng tự chủ của người học là một trong những mục tiêu chính của giáo dục hiện đại. Công việc của người dạy là giảng dạy, và công việc của người học là học tập. Người dạy không thể học thay vị trí của người học. Mục đích của người dạy là giúp người học có được năng lực tự học. Cần cung cấp cho người học các công cụ cho phép họ trở thành người học chủ động, biết cách tự phát triển các kỹ năng nhận thức, nói cách khác là biết học cách học. Một sinh viên được đào tạo tốt là người biết cách học. Người dạy cần có những chiến lược phù hợp để phát huy năng lực tự học của người học. DS phải được thai nghén và hiển ngôn phục vụ cho mục đích trên. Nếu như trước kia người ta chỉ chú trọng chức năng thông tin của giảng viên, ngày nay chức năng tổ chức các hoạt động sư phạm rất được đề cao. Hy vọng việc làm sáng tỏ chức năng của DS sẽ có ích cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng Pháp, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới về hoạt động của giảng viên trên lớp./. Tài liệu tham khảo: 1. Austin, J.-L. (1962), How to do thing with words, Cambridge (Mass) Havard University Press, p.5. 2. Burlinska W. (2012), Le discours pédagogique dans la formation initiale des enseignants de langues étrangères, thèse de doctorat, Uniwersytet Im. Adama Mickiewicza Wpoznaniu, Poznan. 3. Cuq J.-P. (Dir) (2003), Dictionnaire de didactique du français, Paris, CLE International. 4. Dabène L. (1984), “Communication et métacommunication dans la classe de langue étrangère” in INTERACTIONS les échanges langagiers en classe de langue, ouv. coll. de l’Université des Langues et Lettres de Grenoble, Grenoble. 5. Desirat C., Horde T., “Formation des discours pédagogiques”, Langages, n° 45. 6. Kramsch C. (1984/1996), Interaction et discours en classe de langue, Hatier/Didier. 7. Lepers J. (2011), Les fautes de français? Plus jamais! Michel Lafon. 8. Đỗ Thị Kim Liên (2014), Ngôn ngữ học đại cương, NXB Đại học Quốc gia. 9. Nguyễn Việt Quang (2004), Étude du discours pédagogique dans l’enseignement de la compréhension écrite, Cas du Département de Langue et de Culture Françaises de l’ULEI – UN de Hanoi. Thèse de doctorat, Université Nationale de Hanoi, (1977) . 10. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. A FEW THOUGHTS ON PEDAGOGICAL DISCOURSE IN TEACHING FRENCH NGUYEN VIET QUANG Abstract: Basing on classroom observations, the author presents his perspectives on the teachers’ use of classroom language. The article first reviews the formation of the term “pedagogical discourse”, and then covers different functions of this discourse type according to Austin’s speech act theory. In addition to theoretical presentation, the author also suggests his implications deriving from observing both Vietnamese and French teachers’ lessons. This aims to contribute to the reform of French language teaching in Vietnam. Keywords: didactic discourse, pedagogical discourse, speech act, teaching methodology Ngày nhận: 05/9/2016 Ngày phản biện: 19/9/2016 Ngày duyệt đăng: 20/9/2016
File đính kèm:
- 25_2696_2137210.pdf