Một số chú ý khi sử dụng phương pháp giao tiếp trong giảng dạy tiếng Hán hiện đại

Phương pháp giao tiếp đã được áp dụng ngày càng rộng rãi trong quá trình giảng dạy tiếng Hán

hiện đại. So với phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp giao tiếp có một số đặc điểm

và ưu thế nổi bật, tuy nhiên cũng có một số điểm hạn chế nhất định, đòi hỏi người dạy phải vận

dụng một cách sáng tạo mới có thể đem lại hiệu quả như mong đợi. Dưới góc độ ngôn ngữ học

ứng dụng, trên cơ sở phân tích các vấn đề có liên quan đến phương pháp giao tiếp, đồng thời kết

hợp với những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tế giảng dạy, bài viết hy vọng góp phần giải

quyết một số vướng mắc của giảng viên khi sử dụng phương pháp này như: xử lý không tốt kiến

thức ngữ pháp của ngôn ngữ; chưa xác định rõ chuẩn giao tiếp, sự tiếp nhận ngữ pháp chưa thực

sự theo tính hệ thống; cân bằng tỷ lệ chênh lệch giữa “vào” và “ra” của kiến thức ngữ pháp

pdf8 trang | Chia sẻ: phuthai499 | Lượt xem: 828 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số chú ý khi sử dụng phương pháp giao tiếp trong giảng dạy tiếng Hán hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òi hỏi phải có 
lượng đầu vào đầy đủ. Sinh viên Việt Nam khi học 
tập tiếng Hán tại Việt Nam, số lượng và chất lượng 
của ngôn ngữ đối tượng mà họ tiếp xúc đều luôn 
luôn không đủ, tài liệu ngôn ngữ có thể học được 
cũng rất ít. Do vậy, giảng viên giảng dạy tiếng Hán 
khi sáng tạo ra kịch bản chân thực hết mức có thể, 
phải bảo đảm được cường độ luyện tập. Lý luận 
học tập ngôn ngữ cũng thể hiện rõ, quá trình đứa 
trẻ học tập tiếng mẹ đẻ chính là một ví dụ minh 
chứng rất tốt, việc học được tiếng mẹ đẻ của trẻ 
sở dĩ đạt được là do nó được “nạp vào” lượng lớn 
tiếng mẹ đẻ thông qua việc nghe. Việc học tập 
tiếng Hán cũng nên được tiến hành như vậy.
3.2.3. “Phương pháp giao tiếp” phải xử lý tốt 
mối quan hệ giữa “lưu loát” với “chuẩn xác”
 “Lưu loát” (thành thạo) là chỉ khả năng diễn 
đạt ý nghĩa trôi chảy, thoải mái trong giao tiếp, 
còn “chuẩn xác” là chỉ sự “chuẩn xác về ngữ âm, 
nhịp điệu, ngữ điệu, chuẩn xác về hình thức kết 
cấu, chuẩn xác về sắp xếp...” (C.C. Fries). Theo 
nghiên cứu việc học tập ngôn ngữ thứ 2, sinh viên 
trước khi nắm chắc chính xác ngoại ngữ, luôn 
luôn sử dụng một loại “ngôn ngữ trung gian” (中
介语), trong quá trình học, không ngừng làm cho 
ngôn ngữ trung gian tiếp cận với quy phạm của 
ngoại ngữ đã học. Sinh viên mắc phải những lỗi là 
chuyện bình thường, là điều không thể tránh khỏi, 
điều này đòi hỏi khi giảng dạy các mẫu câu, ngay từ 
đầu phải bồi dưỡng cho sinh viên thói quen chính 
xác. Xuất phát từ lý luận trên, một số người cho 
rằng, tính lưu loát quan trọng hơn tính chuẩn xác 
trong giao tiếp, trong quá trình dạy học không cần 
phải ngay lập tức chỉnh sửa lỗi sai của sinh viên. 
Trong học tập ngôn ngữ, việc mắc lỗi là đương 
nhiên, thông qua con đường sử dụng lưu loát 
(thành thạo) ngoại ngữ để đạt được tính chuẩn xác. 
3.2.4. Nâng cao tính phù hợp của chức năng 
giao tiếp trong sử dụng tiếng Hán
Chức năng giao tiếp là chỉ chức năng có biểu 
đạt thân phận, địa vị, thái độ, động cơ của người 
nói và chức năng phán đoán, đánh giá của họ đối 
với sự vật. Như đưa ra phán đoán, đánh giá khả 
năng có thể xảy ra đối với sự vật của nghề nghiệp, 
địa vị xã hội, mối quan hệ thân sơ, trình độ nông 
sâu của hai bên giao tiếp và tần suất xuất hiện 
của sự vật. Phương pháp giao tiếp không những 
phải bồi dưỡng cho sinh viên vận dụng chính 
xác ngôn ngữ, mà còn bồi dưỡng cho họ có thể 
vận dụng phù hợp ngôn ngữ. Đối với các vấn đề 
thường sẽ xuất hiện khi sinh viên học tiếng Hán 
như ngữ khí không phù hợp hoặc ngữ khí ít mềm 
mại, không tự nhiên thì giảng viên phải ngay lập 
tức uốn nắn, chỉnh sửa. Trong quá trình dạy học, 
giảng viên còn phải chú ý giúp đỡ sinh viên tiến 
hành phân tích, tìm hiểu chức năng giao tiếp của 
những câu cụ thể, giải thích tỉ mỉ mối quan hệ giữa 
các đối tượng giao tiếp, ngữ khí của người nói và 
mục đích giao tiếp của họ, dạy cho sinh viên biết 
được làm thế nào để tránh sử dụng những từ ngữ 
không phù hợp mang lại sự khó chịu cho hai bên, 
từ đó nâng cao tính phù hợp trong sử dụng ngôn 
ngữ của sinh viên.
3.2.5. Tận dụng chức năng logic nhằm tăng 
thêm sự hiểu biết về thục ngữ tiếng Hán
Đặc trưng nổi bật nhất của chức năng logic đó 
là “tính hữu cơ” của nó, tức là bên trong bản thân 
sự vật có mối quan hệ trừu tượng nào đó. Mối quan 
hệ ngữ nghĩa trong tiếng Hán có sự khác biệt rõ 
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
ràng so với ngôn ngữ Ấn-Âu: ngôn ngữ Ấn-Âu có 
thể thông qua các từ nối biểu đạt rõ ràng mối quan 
hệ ngữ nghĩa, còn trong rất nhiều câu tiếng Hán lại 
sử dụng hình thức không liên kết để biểu đạt mối 
quan hệ ngữ nghĩa của mình, ví dụ: biểu đạt mối 
quan hệ ngang bằng “前有狼,后有虎” (trước có 
sói, sau có hổ); mối quan hệ chuyển đổi “有心栽
花花不开,无心插柳柳成荫” (có tâm trồng hoa 
hoa không nở, vô tâm cắm liễu liễu xòe bóng râm). 
Từ đó có thể thấy rằng, trong tiếng Hán, ý nghĩa 
phù hợp ý nghĩa tượng trưng (意合意象) tương 
đối nhiều, còn trong ngôn ngữ Ấn-Âu thì tỷ trọng 
hình thức phù hợp ý nghĩa tượng trưng(形合意
象)là tương đối lớn, chính điều này đòi hỏi giảng 
viên khi giảng dạy những ngôn ngữ mang tính đặc 
thù như thành ngữ (成语), yết hậu ngữ (歇后语), 
quán dụng ngữ (惯用语)và tục ngữ dân gian (民
间俗语) cần phải chú ý đến đặc điểm này, đồng 
thời tăng cường giảng giải mối quan hệ ngữ nghĩa 
giữa các phân câu.
3.2.6. Sử dụng chức năng văn bản nhằm nâng 
cao tính gắn kết trong kỹ năng viết tiếng Hán
Như chúng ta đều biết, lời nói là sự triển khai 
hợp lý mang tính gắn kết, có quy luật nhất định, 
mà không phải như kiểu nhảy từ chủ đề này sang 
chủ đề khác một cách đơn giản, còn việc thực hiện 
chức năng văn bản phải dựa vào kết cấu chủ đề. 
Kết cấu chủ đề thông thường do hai thành phần 
chủ đề và trích dẫn tạo thành, trong đó, chủ đề là 
điểm xuất phát của lời nói, thông tin mà hai bên 
giao tiếp nhận được; trích dẫn là lời nói được nói 
xoay quanh chủ đề, là thông tin mới mà người nói 
muốn truyền đạt. Thông thường, chủ đề có trước 
lời trích dẫn, nhưng lời trích dẫn mới là nội dung 
cốt lõi của lời nói.
Trong quá trình dạy học môn viết tiếng Hán 
truyền thống, giảng viên thường tập trung xây 
dựng cách biểu đạt bề ngoài của chữ, từ, ngữ 
pháp mà coi nhẹ việc bồi dưỡng cho sinh viên 
về năng lực gắn kết logic bài văn. Dựa vào lý luận 
kết cấu chủ đề, giảng viên có thể vận dụng hợp lý 
mô hình huấn luyện từ việc làm thế nào để xây 
dựng kết cấu chủ đề đến việc triển khai trích dẫn 
theo chủ đề ra sao, hướng dẫn sinh viên xây dựng 
hợp lý, hoàn thành bài viết, tự do chuyển đổi cách 
xưng hô trong câu...
3.2.7. Sử dụng chức năng kinh nghiệm nhằm 
tăng cường việc nắm vững trạng thái ngôn ngữ
Chức năng kinh nghiệm được thể hiện thông 
qua “tính cập vật” và “trạng thái ngôn ngữ”, trong 
đó, trạng thái ngôn ngữ đóng vai trò thay thế một 
quá trình nào đó để trước hết xây dựng mối quan 
hệ với một người tham gia nào đó. Trong ngữ pháp 
tiếng Hán, trạng thái ngôn ngữ có thể phân thành 
hai loại “chủ động” và “bị động”. Việc nắm vững 
trạng thái ngôn ngữ chủ động tương đối dễ dàng, 
nhưng điểm khó trong quá trình học tập lại nằm ở 
việc nắm vững trạng thái ngôn ngữ bị động. Cái 
gọi là trạng thái ngôn ngữ bị động là chỉ mối quan 
hệ giữa quá trình với mục tiêu hành vi, việc biểu 
thị bị động trong tiếng Hán chủ yếu dựa vào hai 
cách: một là sử dụng các từ ký hiệu như: 被、叫、
让; hai là dựa vào trật tự từ trong câu. Trong lịch 
sử lâu dài của ngôn ngữ nhằm biểu thị bị động 
trong tiếng Hán, cách biểu thị bị động không sử 
dụng từ ký hiệu xuất hiện trong thời đại văn hóa 
Oracle (thời kỳ văn tự khắc trên xương), sớm hơn 
rất nhiều so với thời kỳ biểu thị bị động sử dụng từ 
ký hiệu; biểu thị bị động sử dụng từ ký hiệu là sản 
phẩm được sinh ra trong điều kiện nếu không có từ 
ký hiệu thì thực sự rất khó để nói rõ được tầm ảnh 
hưởng của động tác và đó cũng là sản phẩm của 
ngôn ngữ phát triển đến một giai đoạn nhất định. 
Tiếng Hán là ngôn ngữ ý hợp (phù hợp ý nghĩa) 
điển hình, do vậy, sẽ không thường xuyên sử dụng 
từ ký hiệu. Phần lớn sinh viên tiếng Hán muốn tìm 
hiểu tiếng Hán xuất phát từ hệ thống nhận thức, tạo 
ra những câu tiếng Hán bị động thông thường thì 
vẫn còn gặp phải không ít khó khăn, điều này đòi 
hỏi phải kết hợp lý luận chức năng kinh nghiệm, 
giúp đỡ sinh viên phân tích tìm ra động từ rốt cục 
có mối quan hệ với đối tượng tham gia nào trước.
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
SOME NOTES DURING THE APPLICATION OF COMMUNICATIVE APPROACH
 IN TEACHING MODERN CHINESE
TRINH VAN HUAN
Abstract: The application of the communicative approach in teaching modern Chinese has become 
more and more increasingly widespread during the past years. Undeniably, the communicative 
approach has certain clear advantages and outstanding features compared with traditional ones; 
however, it requires high creativeness from teachers of modern Chinese otherwise they will fail 
to reach the expected teaching effectiveness. Written from the angle of the applied linguistics and 
based on the analysis of the communicative approach related issues together with my practical 
teaching experience, this assignment will hopefully help to solve common problems in the 
application of the communicative approach. 
Keywords: notes, features, teaching, communicative approach, modern Chinese 
Received: 19/3/2018; Revised: 13/4/2018; Accepted for publication: 20/4/2018
4. KẾT LUẬN
Phương pháp giao tiếp là phương pháp giảng 
dạy thông qua mô hình dạy học tương tác nhằm 
phát huy tối đa tinh thần học tập hăng say, tích 
cực chủ động sáng tạo và tạo ra môi trường giao 
tiếp ngôn ngữ thuận lợi cho sinh viên. Đây chính 
là những ưu điểm nổi bật mà phương pháp dạy 
học truyền thống không thể có được. Có điều, cho 
đến nay, phương pháp giao tiếp vẫn chưa thực sự 
trở thành một phương pháp giảng dạy cố định, 
thống nhất, và cũng không dám chắc nó có thể giải 
quyết hiệu quả tất cả những vấn đề nảy sinh trong 
quá trình giảng dạy tiếng Hán. Do vậy, trong quá 
trình sử dụng phương pháp giảng dạy cụ thể, giảng 
viên không nên quá bảo thủ, giữ nguyên phương 
pháp giảng dạy truyền thống, nhưng cũng không 
nên phủ định sạch trơn những ưu điểm mà phương 
pháp giảng dạy truyền thống có được, tích cực tiếp 
thu và vận dụng linh hoạt sáng tạo phương pháp 
giảng dạy tiên tiến, kết hợp hiệu quả những ưu 
điểm của cả hai phương pháp giảng dạy vào trong 
quá trình giảng dạy thực tế của bản thân, có như 
vậy mới thực sự làm cho việc dạy học tiếng Hán 
đạt được hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới./.
Tài liệu tham khảo:
1. 蔡坤(2002),交际教学法的理论、实
践与思考,广西师范大学学报,第1期。
2 .封 宗 信 ( 2 0 0 4) , 现 代 语 言 学
流 派 概 论 , 北 京 大 学 出 版 社 , 北 京 。 
3. 范振东(2007),语法翻译法与交际法的对
比研究,科技信息(学术研究),第14期。
4. 胡壮麟主编(2008),系统功能语言学
概论,北京大学出版社,北京。
5 .刘 珣 ( 2 0 0 0) , 对 外 汉 语 教 育 学
引 论 , 北 京 语 言 大 学 出 版 社 , 北 京 。 
6. 邱瑞君(2007),交际法和任务型教学法之
异同,重庆职业技术学院学报,第1期。
7. 王魁京(1994),对外汉语教学与跨文
化问题的多面性,北京师范大学学报,第6
期。

File đính kèm:

  • pdfkhnnqs_13_5_2018_56_63_trinh_van_huan_855_2136273.pdf
Tài liệu liên quan