Khảo sát việc sử dụng kết cấu chữ“ "在" của sinh viên trường đại học Hùng Vương và biện pháp khắc phục trong quá trình giảng dạy

Qua quá trình học môn Ngữ pháp cũng như việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Trung, sinh viên còn gặp khó

khăn và nhầm lẫn khi dùng kết cấu chữ “Zai-” . Kết cấu này cũng có cách sử dụng tương đương trong

tiếng Việt, nhưng không phải lúc nào cũng áp dụng được. Vậy sai ở đâu? Tại sao sai và khắc phục như thế

nào? Từ vấn đề này, tôi đã quyết định tiến hành khảo sát với 41 sinh viên năm thứ 2, ngành Ngôn ngữ

Trung Quốc, để tìm ra lỗi sai, nguyên nhân và từ đó đưa ra cách giải quyết trong quá trình giảng dạy, giúp

người học hiểu rõ hơn và không nhầm lẫn trong quá trình sử dụng kết cấu này.

pdf4 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 967 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát việc sử dụng kết cấu chữ“ "在" của sinh viên trường đại học Hùng Vương và biện pháp khắc phục trong quá trình giảng dạy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 51
Khoa hoïc giaùo duïc
Kết cấu chữ“Zai-在”là kết cấu ngữ pháp 
được sử dụng thường xuyên trong quá trình học 
cũng như giảng dạy ngôn ngữ Trung Quốc. Các 
nhà nghiên cứu trước đã chỉ ra rất rõ mấu chốt 
của kết cấu chữ“Zai-在”phụ thuộc vào cụm từ 
mà nó kết hợp (cụm danh từ là chủ yếu), tính chất 
của thành phần danh từ không giống nhau, mối 
quan hệ thay đổi của kết cấu chữ“Zai-在”cũng 
khác nhau. Ở đây, bài báo tiến hành nghiên cứu 
vị trí của kết cấu chữ“Zai-在”trong câu, tính 
chất của cụm danh từ khác nhau, sẽ dẫn tới sự 
khác nhau về vị trí kết cấu chư“Zai-在”, nói 
cách khác là tính chất của từ, cụm từ mà chữ 
“Zai-在”kết hợp, quyết định vị trí của kết cấu 
chữ“Zai-在”trong câu. 
1. Khảo sát việc sử dụng kết cấu chữ “Zai-
在”của sinh viên Trường Đại học Hùng Vương
Lấy cấu trúc câu“我在家吃饭”làm chuẩn, 
chúng tôi thiết kế bài khảo sát dưới đây để tiến 
hành khảo sát tình trạng học kết cấu chữ Zai-
在”của sinh viên. 
Bài 1: Phán đoán đúng, sai. Nếu đúng đánh dấu 
“V”, sai đánh dấu “X”
1. (1) 我在家吃饭。 ( )
 (2)我吃饭在家。 ( )
2. (1) 小妹在床上躺着。 ( )
 (2) 小妹躺着在床上。 ( )
3. (1) 爷爷在床上咳嗽。 ( )
 (2) 爷爷咳嗽在床上。 ( )
4. (1) 爸爸在沙发上坐着? ( )
 (2) 爸爸坐在沙发上? ( )
5. (1) 他在旁边笑。 ( )
 (2) 他笑在旁边。 ( )
6. (1)老板在旅馆里住 。 ( )
 (2) 老板住在旅馆里。 ( )
7. (1) 麦克 在河里游泳。 ( )
 (2) 麦克游泳在河里。 ( )
8. (1) 老师在黑板上写字。 ( )
 (2) 老师写字在黑板上。 ( )
9. (1) 我的朋友 在北京上大学。( )
 (2) 我的朋友大学上在北京。 ( )
10. (1) 那个人在山顶上盖房子。 ( )
 (2) 那个人房子盖在丁山上。 ( )
Bài 2: Chọn vị trí đúng cho những cụm từ 
trong ngoặc
1. A我B吃饭C. (在家)
2. A他B笑C。 (在一旁)
3. A她B摸了摸C。 (在书包里)
4. A我B见过他C。 (在照片上)
5. A他B写字C。 (在黑板上)
Đối tượng khảo sát là sinh viên năm thứ 2, 
chuyên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc, tổng số 
sinh viên: 41, trình độ tiếng Trung: trung cấp
Số phiếu phát ra: 41, thu về: 41
Lấy câu “我在家吃饭 – Tôi ăn cơm ở nhà” 
làm căn cứ, chúng tôi khảo sát việc sinh viên sử 
dụng kết cấu chữ “在” trong 3 cấu trúc “NP+在
+方所+VP”、“NP+VP+在+方所”、“在+方
所,NP+VP”. 
(Chú thích: NP: cụm danh từ; VP: cụm động tân).
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG KẾT CẤU CHỮ“ "在"
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG VÀ 
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY
Lê Thị Thu Trang
Khoa Ngoại ngữ, 
Trường Đại học Hùng Vương
TóM TắT
Qua quá trình học môn Ngữ pháp cũng như việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Trung, sinh viên còn gặp khó 
khăn và nhầm lẫn khi dùng kết cấu chữ “Zai-在”. Kết cấu này cũng có cách sử dụng tương đương trong 
tiếng Việt, nhưng không phải lúc nào cũng áp dụng được. Vậy sai ở đâu? Tại sao sai và khắc phục như thế 
nào? Từ vấn đề này, tôi đã quyết định tiến hành khảo sát với 41 sinh viên năm thứ 2, ngành Ngôn ngữ 
Trung Quốc, để tìm ra lỗi sai, nguyên nhân và từ đó đưa ra cách giải quyết trong quá trình giảng dạy, giúp 
người học hiểu rõ hơn và không nhầm lẫn trong quá trình sử dụng kết cấu này. 
Từ khóa: Kết cấu chữ “Zai-在”, lỗi sai, biện pháp khắc phục.
Khoa hoïc giaùo duïc
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä52
Bài khảo sát thứ nhất nhằm mục đích khảo sát 
thói quen sử dụng kết cấu chữ “Zai-在” của sinh 
viên chuyên ngành tiếng Trung, Trường Đại học 
Hùng Vương. Nhìn vào biểu kết quả khảo sát 1, tỷ 
lệ % đúng của các câu 1.1, 3.1, 4.2, 5.5, 6.2, 7.1, 9.1, 
9.2 và 10.1 tương đối cao, trên 80%. Trên thực tế, 
cả 2 câu thuộc nhóm 2, 4, 6, 8, 10 đều đúng, nhưng 
rất nhiều sinh viên vẫn cho 1 hoặc 2 câu trong các 
nhóm đó là sai. 2 câu trong nhóm 1 “我在家
吃饭” và “我吃饭在家”, đa số sinh viên đều làm 
đúng, tuy nhiên vẫn có 7 sinh 
viên chọn câu 2 trong nhóm 1 
là đúng, điều này cho thấy 7 
sinh viên chịu sự ảnh hưởng 
rất lớn của tiếng mẹ đẻ.
Nhiều sinh viên làm sai câu 
2 nhóm 2, câu 1 nhóm 6, câu 
2 nhóm 8, trên thực tế những 
câu đó đều đúng, điều này do 
trong quá trình học kết cấu 
chữ “Zai-在”, các em chịu sự 
ảnh hưởng rất lớn từ kết cấu 
“N+在+NP+VP”. Câu 2 trong 
nhóm 1, 3, 5, 7, 9 đều là câu 
sai, nhưng vẫn có sinh viên 
cho là đúng, cho thấy sinh 
viên cũng chưa thật sự hiểu rõ 
kết cấu chữ “Zai-在”.
Để tìm ra nguyên nhân của 
những lỗi sai trên, chúng tôi đi 
nghiên cứu những vấn đề liên 
quan tới kết cấu chữ “Zai-在”. 
Chúng ta gọi các câu 1 của bài 
khảo sát 1 là nhóm (A), các 
câu 2 là nhóm (B). Nhóm (A) 
có thể phân thành 2 loại: 
①. Những câu ở nhóm (A) 
có thể chuyển sang nhóm (B) 
chúng ta gọi là nhóm (A1). Ví 
dụ: 
(1)小妹在床上躺着。 
 → 小妹躺着在床上 。
(2) 爸爸在沙发上坐着? 
→ 爸爸坐在沙发上?
(3) 老板在旅馆里住 。 
→ 老板住在旅馆里。 
(4)老师在黑板上写字。 
→ 老师写字在黑板。 
(5) 那个人在山顶上盖房子。
→ 那个人房子盖在丁山上。
Thông qua nghiên cứu, tìm 
hiểu chúng ta thấy động từ ở 
câu (1), (2), (3) là động từ bất cập vật, động từ ở 
câu (4), (5) là động từ cập vật, cho dù là động từ 
cập vật hay bất cập vật, kết cấu này đều biểu thị vị 
trí của người hoặc vật. 
②. Không thể chuyển sang nhóm (B) chúng ta 
gọi là nhóm (A2), ví dụ:
(6).我在家吃饭。 → * 我吃饭在家。 
(7).爷爷 在床上咳嗽。 → * 爷爷咳嗽在床上。 
(8).他在旁边笑。 → * 他笑在旁边。 
(9).麦克 在河里游泳。 → * 麦克游泳在河里 。
Kết quả khảo sát như sau:
表1 
题号 正确人数
Số người trả 
lời đúng
正确率
Tỷ lệ
错误人数
Số người trả 
lời sai
偏误率
Tỷ lệ
1(1) 41 100% 0 0%
1(2) 34 82,93% 7 17,07%
2(1) 31 75,61% 10 24,39%
2(2) 13 31,7% 28 68,3%
3(1) 37 90,24% 4 9,76%
3(2) 32 78,05% 9 21,5%
4(1) 24 58,54% 17 41,46%
4(2) 34 82,93% 7 17,07%
5(1) 36 87,8% 5 12,2%
5(2) 31 75,61% 10 24,39%
6(1) 12 29,3% 29 70,7%
6(2) 39 95,12% 2 4,88%
7(1) 39 95,12% 2 4,88%
7(2) 31 75,61% 10 24,39%
8(1) 38 92,7% 3 7,3%
8(2) 19 46,34% 22 53,66%
9(1) 40 97,6% 1 2,4%
9(2) 36 87,8% 5 12,2%
10(1) 39 95,12% 2 4,88%
10(2) 29 70,73% 12 29,27%
表2 
题
号
选A的人数和频率
Chọn A và tỷ lệ
选B的人数和频率
Chọn B và tỷ lệ
选C的人数和频率
Chọn C và tỷ lệ
人数 频率 人数 频率 人数 频率
1 0 0% 41 100% 0 0%
2 3 7,3% 29 70,7% 9 21,95%
3 4 9,76% 32 78,4% 6 14,6%
4 7 17,1% 22 53,7% 16 39,02%
5 0 0% 35 85,4% 11 26,82%
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 53
Khoa hoïc giaùo duïc
(10).我的朋友 在北京上大学。→ * 我的朋友大学上在北京 。
Câu 6, câu 10 là câu sử dụng động từ cập vật, 
câu (7), (8), (9) là câu sử dụng động từ bất cập 
vật. Dù là sử dụng động từ loại nào, thì cấu trúc 
này cũng biểu thị nơi phát sinh của sự việc, hiện 
tượng. Ví dụ “我在家吃饭 – tôi ăn cơm ở nhà”, 
“在家 – ở nhà”, không phải chỉ vị trí của cơm, mà 
là chỉ nơi việc ăn cơm diễn ra. Nhưng khi chúng 
ta nói “ Tôi ăn cơm ở nhà”, cũng có nghĩa là cơm 
đang ở nhà. Từ đó, chúng ta biết cách sử dụng kết 
cấu chữ “Zai-在” thế nào cho đúng, các cấu trúc 
biểu thị vị trí của người hay sự vật, sẽ dùng được 
2 kết cấu, biểu thị nơi phát sinh sự việc không sử 
dụng được cả 2 kết cấu trên, chỉ sử dụng kết cấu 
“TP+ 在+方所+VP”。Tiếp tục phân tích Biểu 2, 
chúng ta có thể thấy, kết cấu “NP+在+方所+VP” 
là kết cấu mà đa số sinh viên nắm vững. Mặc dù, 
kết cấu “NP+在+方所+VP” không có sự biểu đạt 
tương ứng về thứ tự từ trong tiếng Việt, nhưng 
thứ tự từ trong tiếng Việt không gây ra sự hiểu 
lầm khi sử dụng kết cấu này trong tiếng Trung của 
sinh viên. 
Kết cấu chữ “Zai-在” tại câu 2, 3, 5 không thể 
đặt ở đầu câu. Trong câu 2 và câu 3, “在一旁”và “
在书包里” là kết cấu chữ “Zai-在” mang tính chất 
bị động, do đó không thể đứng đầu câu. “在家”, “在
照片上”, “在黑板上” ở câu 1, câu 4 và câu 5 chỉ là 
tân ngữ của động tác hoặc không gian tồn tại khách 
thể. Vậy, tại sao kết cấu chữ “Zai-在” ở câu 1, câu 4 
có thể đứng đầu câu, câu 5 thì không thể? Điều này 
rút ra được từ đặc trưng của kết cấu VP. Chúng ta 
thấy trong kết cấu “在+方所,NP+VP”, VP ngoài 
việc biểu thị động tác đã hoàn thành, còn bao hàm 
câu động từ năng nguyện, câu phán đoán, câu tồn 
hiện và câu hiện tại, tương lai. “吃饭” trong câu 1 
và “见过他” trong câu 4 đều biểu thị động tác đã 
hoàn thành, do đó đầu câu có thể sử dụng kết cấu 
chữ “Zai-在”, trong khi đó, kết cấu động tân – VP 
“写字” ở câu 5 không có các đặc điểm nói trên, do 
đó trước cụm “他写字” không thể sử dụng kết cấu 
chữ “Zai-在”. Nếu chuyển “写字” thành “写了一个
字”、“写字写得很好看”, “想写一个字”, thì có 
thể tham gia vào kết cấu “在+方所,NP+VP”。
Mặc dù, kết cấu chữ “Zai-在” trong tiếng Việt 
thường xuất hiện ở đầu câu, nhưng số sinh viên 
chọn C rất ít. Đoản ngữ chữ “Zai-在” khi làm 
trạng ngữ chỉ địa điểm thường không xuất hiện ở 
cuối câu, nếu xuất hiện ở cuối câu sẽ làm bổ ngữ 
chỉ kết quả, điều này rất rõ ràng. Nhưng vẫn có 
một số sinh viên chọn C, có thể do sự ảnh hưởng 
từ ngôn ngữ mẹ đẻ (đoản ngữ chữ “Zai-在” đứng 
ở cuối câu), cũng có thể do trình độ tiếng Trung 
của sinh viên còn thấp.
2. Cách khắc phục lỗi sai cho sinh viên trong 
quá trình dạy học
Để giải quyết các kết quả nghiên cứu trên, 
chúng ta tiến hành so sánh 3 vị trí của kết cấu chữ 
“Zai-在” trong cả ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng 
Trung: “NP + 在 + 方所 +VP”, “在 + 方所,NP 
+VP”, “NP + VP + 在 + 方所”。
Theo thống kê, ta thấy kết cấu “NP + 在+方所
+ VP”, có thể xem là câu không dấu câu (ở đây đề 
cập tới dấu phẩy “,” tách đoản ngữ chữ “Zai-在”), 
còn kết cấu “在+方所,NP + VP”, “NP + VP + 
在 + 方所” là câu có dấu câu. Trong tiếng Việt, 
thành phần tương ứng với đoản ngữ chỉ phương 
vị, nơi chốn chữ “Zai-在” thường đứng ở cuối câu 
thành “câu không dấu câu”, đứng ở đầu câu thành 
“câu có dấu câu”. Sinh viên Việt Nam, khi học kết 
cấu “NP + 在+方所+ VP”- câu không dấu, thường 
so sánh sử dụng với câu có dấu trong tiếng Việt. 
Trên thực tế, sinh viên Việt Nam có thể sử dụng 
sự chuyển dịch của tiếng mẹ đẻ để học câu có dấu. 
Trong kết cấu chữ “Zai-在” chỉ nơi chốn, trong 
quá trình dạy học, không cần nhấn mạnh quá vào 
các điều kiện hạn chế về ngữ nghĩa của kết cấu 
“NP + 在 + 方所 + VP” trong tiếng Trung.
Trong kết cấu “在+方所,NP + VP” thông 
thường đằng sau đoản ngữ chỉ phương vi nơi chốn 
chữ “Zai-在” thường có dấu phẩy, dấu phẩy này có 
thể coi là ký hiệu khi đoản ngữ chỉ phương vị chữ 
“Zai-在” đứng ở đầu câu. Trong tiếng Việt, khi 
đoản ngữ chỉ phương vị, nơi chốn đứng đầu câu, 
thông thường đằng sau cũng cần có ký hiệu là dấu 
phẩy. Chính vì tính đồng nhất ở ký hiệu này mà 
sinh viên Việt Nam thường sử dụng nhầm kết cấu 
của tiếng mẹ đẻ sang tiếng Trung. Nhưng không 
phải lúc nào đoản ngữ chỉ phương vị chữ “Zai-在” 
cũng đứng ở đầu câu, bởi vì nó được quyết định từ 
tính chất của cụm động tân - VP, ngoài việc biểu 
thị động tác đã hoàn thành, cấu trúc VP còn bao 
hàm câu động từ năng nguyện, câu phán đoán, 
câu tồn hiện, câu hiện tại và câu tương lai, trong 
những câu này, đoản ngữ chỉ phương vị chữ “Zai-
在” đều đứng đầu câu. Những loại câu này được 
đưa ra trong qui tắc trên cũng thường thấy trong 
tiếng Việt, để sinh viên Việt Nam hiểu và nhớ cấu 
trúc này cũng không phải là khó, chúng ta có thể 
trực tiếp dạy qui tắc này cho sinh viên, đồng thời 
lấy ví dụ cụ thể để giúp sinh viên nhớ lâu. Trong 
Khoa hoïc giaùo duïc
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä54
quá trình dạy học, có thể sử dụng sự chuyển di của 
tiếng mẹ đẻ để so sánh và nói rõ. 
Với kết cấu “NP+VP+在+方所”, trong tiếng 
Việt cũng thường sử dụng kết cấu này, do đó sinh 
viên học tiếng Trung, khi sử dụng kết cấu chữ 
“Zai-在”, thường sử dụng kết cấu “NP+VP+在+
方所”, nhưng có lúc đúng, có lúc sai, đặc biệt là 
sinh viên năm thứ nhất, thường sử dụng sai, ví dụ: 
“我吃饭在家”; “我等他在学校门口”. Đoản ngữ 
chỉ phương vị nơi chốn chữ “Zai-在” trong tiếng 
Trung thường đứng sau động từ, nhưng không thể 
xem là vị trí sau trạng ngữ, mà là đoản ngữ chữ 
“Zai-在” chỉ phương vị nơi chốn làm bổ ngữ. Do 
sự khác nhau về trật tự từ, khi đoản ngữ phương 
vị nơi chốn chữ “Zai-在” làm thành câu có bổ ngữ 
chỉ kết quả và trạng ngữ chỉ thời gian, sẽ tạo ra sự 
khác nhau về ý nghĩa của câu, ví dụ: “在地上跳 
– nhảy trên đất” hành động nhảy diễn ra trên đất, 
“跳在地上 – nhảy xuống đất” nhảy từ chỗ khác 
xuống đất. Khi giảng về đoản ngữ chữ “在”chỉ bổ 
ngữ kết quả, ngoài việc giảng cho sinh viên đoản 
ngữ chỉ phương vị nơi chốn chữ “Zai-在” trong 
kết cấu “NP+VP+在+方所” biểu thị kết quả của 
động tác, cần nhấn mạnh đoản ngữ chỉ phương 
vị nơi chốn chữ “Zai-在” phát sinh sau động tác, 
đồng thời toàn bộ quá trình của động tác đều phát 
sinh ở nơi mà đoản ngữ chỉ phương vị nơi chốn 
chữ “Zai-在” thể hiện.
Sinh viên Việt Nam trong khi tìm hiểu sự sai 
lệch ý nghĩa mà vị trí đoản ngữ chỉ phương vị nơi 
chốn chữ “Zai-在” trong câu dẫn tới, cần phải tìm 
hiểu ngữ nghĩa, ngữ pháp của đoản ngữ chữ “Zai-
在” này và sự chuyển dịch của tiếng mẹ đẻ. Đối với 
câu không dấu phẩy trong hai ngôn ngữ, có thể tận 
dụng việc chuyển di của tiếng mẹ đẻ để đối chiếu 
so sánh; Đối với câu có dấu phẩy, khi giảng dạy, 
cần dẫn nhập vào khái niệm “自足型” và “非自足
型”, đồng thời cần so sánh đối chiếu cách dùng của 
đoản ngữ chữ “在” chỉ phương vị nơi chốn làm bổ 
ngữ chỉ kết quả và làm trạng ngữ chỉ nơi chốn, cũng 
cần chú ý cách dạy đối chiếu câu có dấu phẩy và 
không dấu phẩy trong tiếng Việt. 
Vì thời gian có hạn, bài báo chỉ tập trung phân 
tích một số ví dụ điển hình về cấu trúc chữ “Zai-
在” mà sinh viên thường nhầm khi sử dụng, tìm 
ra nguyên nhân và một số cách khắc phục trong 
quá trình giảng dạy, mong quý thầy cô đóng góp 
thêm ý kiến để xây dựng bài báo thành một đề tài 
Nghiên cứu Khoa học. 
Tài liệu tham khảo
1.陆俭明(1993) 主编,自选集》,大象出版
社;
2.朱德熙(1998)主编,《语法讲义》,商务
印书馆;
3.朱德熙(1998)主编,《新著国语文法》,
商务印书馆;
4.黄伯荣(1991)主编,《现代汉语语法》,
高等出版社;
5. 河内大学(2009)主编,《50年汉语教学与
研究-国际研讨会》;
6. 杨寄洲主编,《汉语教程》,北京语言文
化大学出版社;
7. Nguyến Hưu Trí (2002), Thực hành ngữ pháp 
tiếng Hán hiện đại, NXB Đà Nẵng.
SUMMARY
INVESTIGATION OF THE USE OF THE "在" STRUCTURE IN STUDENTS 
AND THE REMEDIES IN TEACHING PROCESS
Le Thi Thu Trang 
Faculty of Foreign Language, Hung Vuong University
Through the process of learning grammar as well as using Chinese, students still have problems and 
confusion when using the “P” structure. This structure has the equivalent use in Vietnamese, but it is not 
always applicable. What is wrong? Why is wrong and how to solve it? Regarding to this problem, I decided 
to conduct the survey with 41 second-year students in Chinese language majors to find the errors, the 
causes and to give solution in the teaching process, to help learners to better understand better and not 
confusion of using this structure.
Key words: 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_viec_su_dung_ket_cau_chu_cua_sinh_vien_truong_dai_h.pdf
Tài liệu liên quan