Giáo trình riêng dạy tiếng Việt cho người nói tiếng Pháp
Trong thời đại toàn cầu hoá, ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt
Nam làm việc và sinh sống. Để có thể hoà nhập với người bản xứ, một trong
những nhu cầu của họ là học tiếng Việt. Theo khảo sát, hiện có sách dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài bằng tiếng Việt, tiếng Anh, sách dạy cho người
Trung Quốc, Hàn Quốc nhưng chưa có giáo trình chuẩn dạy cho người nói tiếng
Pháp bằng tiếng Việt. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy các học
viên nói tiếng Pháp có được một số thuận lợi sau: tiếng Việt vay mượn khoảng
3000 từ tiếng Pháp, từ vựng tiếng Việt bất biến (không có chia động từ, không
có giống và số,.). Bài viết này tập trung nghiên cứu một số giáo trình dạy tiếng
Việt hiện hành để làm cơ sở biên soạn một giáo trình riêng cho nhóm đối tượng
này, trong đó cần đặc biệt chú trọng áp dụng năm thành tố sau: (1) văn bản ví
dụ (hội thoại, hay các dạng ngữ liệu khác), (2) luyện phát âm (sáu thanh điệu),
(3) các điểm văn hoá Việt Nam (danh xưng, ca dao, thành ngữ, tục ngữ), (4) các
từ vay mượn từ tiếng Pháp và (5) các địa danh lịch sử ở Việt Nam liên quan đến
lịch sử, văn hoá Pháp.
những đặc điểm của tiếng Việt khác biệt với tiếng Pháp. Yếu tố đầu tiên cần giải thích rõ là các từ xưng hô. Theo khảo sát của Nguyễn Lê Diệu Hiền (2013) thì có đến 68,75% (tương ứng với 33/48) học viên gặp khó khăn khi xưng hô bằng tiếng Việt. Trong số 15 học viên còn lại, những người không gặp khó khăn trong xưng hô và đã học được 1,5 năm trở lên, có đến 10 người (66,67%) chọn từ xưng hô không phù hợp với văn hoá Việt Nam. Một trong những điều gây khó khăn cho người học khi lựa chọn từ xưng hô là do khó đoán tuổi người Việt (Nguyễn Lê Diệu Hiền, 2013: 57). Cũng theo tác giả, đối với người học ngắn hạn thì các đại từ nhân xưng như “tôi”, “bạn”, ... là đủ nhưng để có thể giao tiếp thực sự với người Việt Nam thì người học cần biết cách lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp, “đảm bảo nguyên tắc xưng khiêm - hô tôn, trọng tình và tôn trọng người khác (Nguyễn Lê Diệu Hiền, 2013: 55). Tác giả cũng đề nghị dạy xưng hô cần đưa nội dung văn hoá và truyền thống ứng xử trong xưng hô vào nội dung giảng dạy hợp (Nguyễn Lê Diệu Hiền, 2013: 57). Cụ thể, cần đưa và giải thích các từ xưng hô chỉ quan hệ thân tộc, xu hướng sử dụng phổ biến nhất trong tiếng Việt (Nguyễn Lê Diệu Hiền, 2013: 55), vào bài học. Đồng thời, khi chào nhau, người Việt cũng có thói quen cúi đầu, trẻ em chào người lớn còn kèm theo cả vòng tay. Đây cũng là những đặc điểm văn hoá cần giải thích cho người học. Ngoài ra, như đã nêu trên, việc biết tuổi rất cần thiết để lựa chọn từ xưng hô phù hợp. Do đó, câu hỏi về tuổi cũng nên được đưa vào ở các bài học đầu tiên. Việc hỏi tuổi ngay từ những lần gặp đầu tiên theo văn hoá Việt cần được giải thích rõ với học viên nước ngoài vì điều này có thể bị xem là bất lịch sự theo văn hoá của họ. Thứ hai, người Việt rất hay dùng ca dao, tục ngữ, thành ngữ nên các hình thức này cần được khai thác triệt để trong các bài học. Ví dụ dạy về phần chào hỏi, chúng ta có thể đưa ra câu tục ngữ “Lời chào cao hơn mâm cỗ” để nêu lên tầm quan trọng của việc chào hỏi, hoặc câu “Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi” để nhấn mạnh đến vai trò to lớn của quan hệ thị tộc trong xưng hô. Không những thế, hai câu tục ngữ này còn là phần dẫn nhập để dạy về phần so sánh bằng, so sánh hơn. Câu tục ngữ thứ nhất còn có thể dùng để dạy về cấu trúc câu đặc biệt trong tiếng Việt: chủ ngữ + tính từ mà không cần có động từ “là” như trong tiếng Pháp. Hay câu ca dao về hoa sen “Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng / Nhị vàng, bông trắng, lá Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Nghiên cứu Liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy Ngôn ngữ lần thứ hai” Ngôn ngữ học ứng dụng 102 xanh / Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” có thể là văn bản ví dụ để dạy về màu sắc và sau đó là ý nghĩa của hoa sen trong văn hoá Việt Nam. Thứ ba, trong tiếng Việt có một số lượng lớn từ Hán-Việt, đặc biệt được dùng để chỉ các danh từ riêng nên cũng cần được giải thích dần dần với người học. Người học cũng sẽ thích thú khi biết ý nghĩa tên của những người Việt mà họ quen (mà đa phần là từ Hán-Việt), điều ít gặp ở các tên Pháp. Thứ tư, về văn hoá, cần đưa tối đa các đặc điểm văn hoá Việt Nam (lễ hội, ẩm thực, phong tục, trang phục,...) vào các văn bản ví dụ, văn bản khởi động để giúp người học dần dần hiểu biết thêm về văn hoá Việt. Cũng có thể đưa các phần văn hoá vào bài đọc thêm. Phần thứ hai là những đặc điểm về ngôn ngữ và văn hoá liên quan đến Việt Nam và Pháp. Những điểm chung này sẽ giúp người học nói tiếng Pháp thích thú và dễ dàng tiếp thu tiếng Việt hơn. Thứ nhất, tiếng Việt vay mượn khoảng 3000 từ tiếng Pháp (Nguyễn Thuý Nga, 2014: 27) nên cần đưa những từ tiếng Pháp đang còn được sử dụng vào sách. Thứ hai, các công trình, các di tích lịch sử ở Việt Nam có liên quan đến cộng đồng Pháp Ngữ cũng cần đưa vào sách: Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, cầu Trường Tiền ở Huế, cầu Long Biên ở Hà Nội. Bên cạnh đó là các nhân vật có liên quan đến Việt Nam ví dụ như bác sĩ Yersin ở Đà Lạt; Marguerite Duras với tiểu thuyết “l’Amant” cùng bối cảnh ở Vĩnh Long – Sa Đéc; các nữ văn sĩ gốc Việt sáng tác bằng tiếng Pháp như Kim Thuý, Anna Moï; các nghệ sĩ Việt Nam nổi tiếng ở Pháp như Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng. 1.2. Hình thức trình bày giáo trình Sách dạy tiếng Việt cho người nói tiếng Pháp sẽ được trình bày dựa theo cấu trúc của giáo trình “Le nouveau Taxi 1” (2009) và một phần từ giáo trình “Tiếng Việt 123” (2006). Cụ thể, ở phần mục lục ngang đầu sách sẽ gồm 6 cột chủ điểm: tên bài học, nội dung văn hoá-xã hội, mục đích giao tiếp, mục đích ngôn ngữ (ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm). Sau ba bài học sẽ là phần giới thiệu các đặc điểm văn hoá Việt Nam. Sau bốn bài học sẽ có một phần ôn. Cuối sách là phần tóm tắt ngữ pháp và bảng từ vựng song ngữ Việt – Pháp các từ đã học trong sách. Mỗi bài học sẽ gồm các phần : “Cùng khám phá” với một hay vài văn bản ví dụ (hội thoại, ca dao, tục ngữ, đoạn thơ, đoạn nhạc); “Ngữ pháp” cùng với “Cùng thực hành” nhằm ứng dụng điểm ngữ pháp vừa giải thích; “Điểm dừng văn hoá” giới thiệu các điểm văn hoá Việt ; “Học nói” với các câu dùng để giao tiếp và cuối cùng là phần “Tròn vành rõ chữ” để luyện phát âm, phân biệt âm. Ví dụ cụ thể với bài 1 có tiêu đề “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Người học sẽ bắt đầu với phần “Cùng khám phá” qua hai hội thoại : Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Nghiên cứu Liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy Ngôn ngữ lần thứ hai” Ngôn ngữ học ứng dụng 103 Hội thoại 1 - Em chào cô ạ. - Chào em. Em tên là gì? - Em tên Linh ạ. Hội thoại 2 - Chào ông. Cháu đi học về. - Ừ, chào Tân. Sau đó, ở phần “Ngữ pháp”, người học sẽ tìm hiểu hai cấu trúc để chào và để hỏi tên. “Điểm dừng văn hoá” tiếp theo sẽ giới thiệu cho người học các từ xưng hô trong văn hoá Việt Nam, lúc đầu chỉ quan hệ thân tộc sau đó đã chuyển sang chỉ quan hệ xã hội (ông – cháu, cô – em). Một số từ xưng hô khác sẽ được cung cấp trong phần “Cùng thực hành”. Phần “Học nói” sẽ đưa ra một số tình huống giao tiếp khác để người học có thể luyện tập chào hỏi. Ở phần “Tròn vành rõ chữ”, người học sẽ luyện phát âm các nhóm nguyên âm a/ă/â, e/ê và o/ô/ơ. Hai câu “O tròn như quả trứng gà / Ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu” có thể được sử dụng để minh hoạ cho các phụ âm “o/ô/ơ”. Sau cùng, người học sẽ luyện các âm kết hợp: tan, tăn, tân; vè, về; co, cô, cơ. Ở đây, người học cũng sẽ nhận biết được các nguyên âm ă, â không đứng một mình được mà phải kết hợp với phụ âm cuối. Dĩ nhiên, các yếu tố phi ngôn ngữ, các hình ảnh, sẽ được sử dụng để minh hoạ tối đa cho bài học nhằm giúp người học lĩnh hội nội dung bài học hiệu quả nhất. Kết luận Nhu cầu học tiếng Việt của người nước ngoài đang có xu hướng tăng, trong đó có cả những người nói tiếng Pháp. Vì vậy, cần biên soạn một giáo trình dạy tiếng Việt riêng cho đối tượng này, chú trọng đến các điểm riêng biệt của ngôn ngữ, văn hoá Việt lẫn các điểm chung về ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử Việt – Pháp. Nội dung các phần cần được trình bày rõ ràng, đơn giản và kèm theo các hình ảnh minh học rõ nét, sống động. Báo cáo này mới chỉ là khởi đầu cho một dự án cá nhân lâu dài: biên soạn được một giáo trình theo các điểm như đã phân tích ở trên. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Nghiên cứu Liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy Ngôn ngữ lần thứ hai” Ngôn ngữ học ứng dụng 104 Tài liệu tham khảo Ánh Nga (2010). Tiếng Việt dành cho người Pháp – Le Vietnamien pour les Français. TP. HCM: Nhà xuất bản Văn hoá – Văn nghệ TP. HCM, 260 trang. Capelle, G & Menand, R. (2009). Le Nouveau Taxi 1. Paris: Hachette, 144 trang. Cordier-Gauthier, C. (2002). “Les éléments constitutifs du discours du manuel”, Ela. Études de linguistique appliquée, 1(125) : 25-36. Debyser, F. (1973). “La mort du manuel et le déclin de l'illusion méthodologique”, Le français dans le monde, 100: 63-68. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2012). Tiếng Việt trình độ A – Tập 1 (tb lần 6). Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới, 232 trang. Đỗ Thế Dũng và Lê Thanh Thuỷ (2005). Le Vietnamien sans peine – La méthode ASSIMIL (tb). Poitiers: Aubin Imprimeur, 578 trang. Klett, Estela (2012). “Le manuel pour enseigner une langue étrangère : entre faiblesses et vertus”, Synergie Venezuela, 7 : 7-16. Nguyễn Lê Diệu Hiền (2013). “Dạy từ xưng hô tiếng Việt cho người nước ngoài – từ học đến sử dụng”, Tạp chí Khoa học Xã hội, 1 (173): 51-58. Nguyễn Thuý Nga (2014). “Các yếu tố tác động đến xu hướng sử dụng nguyên dạng từ gốc Anh trong báo tiếng Việt”, Ngôn ngữ và Đời sống, 12 (230): 27-30. Nguyễn Việt Hương (2005). Thực hành Tiếng Việt (tb). Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 331 trang. Piccardo, E. và Yaïche, F (2005). “Le manuel est mort, vive le manuel ! ”: plaidoyer pour une nouvelle culture d'enseignement et d'apprentissage”, Ela. Études de linguistique appliquée, 4 (140) : 443-458. Sagaz, M. (2007). “Conception théorique pour une modélisation de l’enseignement-apprentissage d’une langue étrangère”, International Christian University, Language Research Bulletin, 22 : 1-13. Trung tâm Tiếng Việt 123VIETNAMESE (2016). Tiếng Việt 123. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới, 172 trang. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Nghiên cứu Liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy Ngôn ngữ lần thứ hai” Ngôn ngữ học ứng dụng 105 Thông tin tác giả Ông Trương Tiến Dũng hiện là giảng viên thuộc khoa Tiếng Pháp, trường Đại Học Ngoại Ngữ, Đại Học Huế. Ông tốt nghiệp cử nhân loại Giỏi, ngành Sư Phạm Tiếng Pháp ở trường Đại Học Sư Phạm – Đại Học Huế năm 2005. Ông mới lấy bằng Thạc sĩ Khoa học, chuyên ngành Phát triển Du lịch tại Đại Học Québec ở Montréal, Canada, loại Xuất Sắc. Ngoài giảng dạy tiếng Pháp và Du lịch, ông còn dạy tiếng Việt cho người nước ngoài từ năm 2012. Ông bắt đầu dạy tiếng Việt ở Trung Tâm Văn hoá Pháp tại Huế (nay là Viện Pháp tại Huế). Sau khi đi học ở Canada về (năm 2015), ông tiếp tục dạy tiếng Việt cho một số người nước ngoài, gồm người Pháp, Anh và Bồ Đào Nha. Email: truongtdung@yahoo.fr, truongtdunghuevn@gmail.com . Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Nghiên cứu Liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy Ngôn ngữ lần thứ hai”
File đính kèm:
- truongtdung_bao_cao_toan_van_ky_yeu_0726_2118810.pdf