Đối chiếu cấu trúc âm tiết và âm đầu tiếng Anh với Tiếng Việt

Mối quan hệ tác động qua lại giữa

nghiên cứu đối chiếu với việc dạy và học ngoại

ngữ rất khắn khít với nhau. Đặc biệt là trong

phạm vi nghiên cứu đối chiều với việc phân

tích lỗi trong khi học và sử dụng ngoại ngữ.

Chúng ta thấy rằng việc thu thập và phân tích

lỗi học ngoại ngữ, dùng ngoại ngữ là rất có ích.

Ý nghĩa của nó càng lớn hơn khi việc dạy học

và sử dụng ngoại ngữ trở thành một nhu cầu

quần chúng rộng rãi và đặc biệt khi tiếng Anh

ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới

pdf4 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối chiếu cấu trúc âm tiết và âm đầu tiếng Anh với Tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 1/2016 No. 1/2016 
 79 
ĐỐI CHIẾU CẤU TRÚC ÂM TIẾT VÀ ÂM ĐẦU 
 TIẾNG ANH VỚI TIẾNG VIỆT 
ThS. Hồ Thị Mỹ Linh 
Trung tâm Ngoại ngữ & Tin học, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt 
Mối quan hệ tác động qua lại giữa 
nghiên cứu đối chiếu với việc dạy và học ngoại 
ngữ rất khắn khít với nhau. Đặc biệt là trong 
phạm vi nghiên cứu đối chiều với việc phân 
tích lỗi trong khi học và sử dụng ngoại ngữ. 
Chúng ta thấy rằng việc thu thập và phân tích 
lỗi học ngoại ngữ, dùng ngoại ngữ là rất có ích. 
Ý nghĩa của nó càng lớn hơn khi việc dạy học 
và sử dụng ngoại ngữ trở thành một nhu cầu 
quần chúng rộng rãi và đặc biệt khi tiếng Anh 
ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. 
Từ khóa 
Đối chiếu cấu trúc âm tiết, âm đầu của tiếng 
Việt và tiếng Anh 
1. Mở đầu 
“Đầu thế kỷ XVIII, những nghiên 
cứu đối chiếu trong ngôn ngữ học xuất 
hiện khá phổ biến do có sự phát hiện 
nhiều vùng đất mới với nhiều cộng đồng 
dân tộc - ngôn ngữ mới. Nhu cầu học 
tiếng để giao tiếp cũng như nhu cầu của 
sự phát triển của khoa học ngôn ngữ theo 
xu hướng nghiên cứu lý giải đa ngữ luận 
(multilingualism) làm cho ngôn ngữ học 
đối chiếu (contrastive linguistics) ngày 
càng có vị trí quan trọng, đặc biệt là từ 
thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây. 
Ở Việt Nam, hướng nghiên cứu đối 
chiếu cũng được chú trọng. Hai mảng lớn 
của ngôn ngữ học đối chiếu ở nước ta suốt 
hàng chục năm qua là: 
(1) Đối chiếu tiếng Việt với những 
ngôn ngữ khác ngữ hệ và loại hình, có 
phạm vi sử dụng rộng rãi trên thế giới 
như Nga, Anh, Pháp,... nhằm soi sáng 
nhiều vấn đề lý thuyết của ngôn ngữ học 
đại cương và giúp cho việc học dạy tiếng, 
dịch thuật,...; 
(2) Đối chiếu tiếng Việt với các ngôn 
ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam và một 
số nước trong khu vực”. 
 Khi nghiên cứu đối chiếu, lỗi là sản 
phẩm của một mối quan hệ tương phản 
trong việc chuyển đạt thông tin và cũng 
cho thấy nguyên nhân của sự biến dạng 
đó. Với đặc điểm như vậy lỗi học và dùng 
ngoại ngữ là tài liệu thô rất quí về nhiều 
mặt mà ta cần thu thập, hệ thống hoá và 
phân tích nghiên cứu. Thiếu nó chúng ta 
không thể có được một cách hiểu đầy đủ 
về những tiến bộ xảy ra trong cảm thức 
ngôn ngữ của người học tiếng. Và như vậy 
khối tài liệu về lỗi khi học và sử dụng 
ngoại ngữ do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 1/2016 No. 1/2016 
 80 
sẽ phục vụ một cách đắc lực cho việc 
nghiên cứu đối chiếu từ nhiều góc độ khác 
nhau của nó. Và ngược lại nghiên cứu đối 
chiếu, xét về nhiều mặt, là thực sự có ích 
cho việc học, dạy, cho việc sử dụng ngoại 
ngữ nói chung. 
 Là một giáo viên tiếng Anh tôi thấy 
rằng việc nghiên cứu đối chiều giữa tiếng 
Việt và tiếng Anh có mối quan hệ tác động 
qua lại rất lớn đối với việc thu thập và 
phân tích lỗi. Đặc biệt trong lĩnh vực ngữ 
âm, cụ thể là cấu trúc âm tiết và âm đầu 
là một trong những lĩnh vực sinh viên 
thường xuyên mắc lỗi khi phát âm làm 
cho các em thiếu tự tin khi giao tiếp bằng 
tiếng Anh, mặc dù thời gian các em học 
tiếng Anh rất dài (hơn 7 năm). 
2. Đối chiếu cấu trúc âm tiết 
2.1. Khác biệt trong cấu trúc âm tiết 
Khác biệt lớn nhất trong cấu trúc âm 
tiết ngôn ngữ tiếng Anh - ngôn ngữ hỗn 
nhập, phi âm tiết tính - với tiếng Việt - một 
ngôn ngữ đơn lập - âm tiết tính triệt để. 
Trong tiếng Việt ranh giới âm tiết 
trùng với ranh giới hình vị. 
Ví dụ: Phân tích phát ngôn sau đây 
trong bài thơ của Hồ Chủ Tịch: 
Tiến / lên / toàn / thắng / sẽ / về / ta / 
Ta thấy rằng nếu rút ra những đơn 
vị có ý nghĩa nhỏ nhất, tức hình vị, ta sẽ 
có bảy hình vị khác nhau. Phát ngôn trên 
cũng có thể phân tích trên bình diện căn 
cứ vào trọng âm, vào luồn hơi thể khi 
phát âm và đi tới đơn vị phát âm nhỏ 
nhất, tức âm tiết, thì ta có được bảy âm 
tiết. Vì vậy ta thấy rằng số lượng âm tiết 
và số lượng hình vị trùng nhau. Mỗi âm 
tiết là hình thức biểu đạt của hình vị. Mối 
tương hợp khá sít sao giữa hai mặt âm và 
nghĩa trong quá trình chia tách ngữ lưu 
đã dẫn đến kết quả là gần như một âm 
tiết mang thanh điệu ở đây đều có khả 
năng mang nghĩa hoặc ngữ nghĩa hoá, 
đều có thể được sử dụng và nhận diện 
như những hình vị và những từ độc lập. 
Cái chỉnh thể đó chính là “ chữ”, là 
“tiếng” theo cách gọi của người Việt và 
cũng chính là âm tiết. 
“Theo cách miêu tả âm tiết tiếng 
Việt, tạm gọi là “truyền thống”, ngôn ngữ 
đơn lập như sau: C1VC2. C1 và C2 có thể 
thiếu và âm tiết lúc này chỉ còn là một V 
kết hợp với một thanh điệu, V là đơn vị 
không thể thiếu được. Đó là yếu tố chính 
âm hay âm tiết âm. Tác giả có nói đến 
thanh điệu, nhưng trong công thức cấu 
tạo âm tiết thì không có mặt, vì thanh 
điệu không được kể là một âm vị”. 
 Trong tiếng Anh thì khác hoàn toàn 
số lượng hình vị và âm tiết không trùng 
nhau. Hay ngay khi số lượng hình vị bằng 
với số lượng âm tiết thì ranh giới của 
chúng cũng không trùng nhau. 
Ví dụ: 
+ Boys [boi-z] (những người con 
trai) có hai hình vị như chỉ có một âm tiết 
 + Meeting (cuộc họp mặt) 2 hình vị 
[mi: t-i], 2 âm tiết [mi:- ti] 
Mặt khác, mối liên hệ so le giữa ranh 
giới âm tiết và ranh giới hình vị trong 
tiếng Anh xảy ra một cách thường xuyên 
và không cố định trong dòng ngữ lưu cũng 
khiến cho hình vị trong tiếng Anh ít khi 
hiện hữu được một “bộ mặt” ổn định, một 
âm hưởng cố định, mà hầu như phải luôn 
luôn phiên chuyển theo sự xê dịch của 
ranh giới các âm tiết. 
Ví dụ: put in /put in/ --> [pu tin] 
 Dạng thức ngữ âm tiếng Anh, ngôn 
ngữ biến hình: CCCVCCCC. Trước nguyên 
âm có thể có ba phụ âm, sau nguyên âm 
có thể có 4 phụ âm. Cấu trúc sau hạt 
nhân có thể bị tách đôi ở trong tiếng Anh 
do số lượng phụ âm quá nhiều. Một số 
phụ âm kết hợp với nguyên âm tạo thành 
vần, số khác tạo thành phụ âm cuối. 
Ví dụ: Spray (tia nước), Thought 
(nghĩ). 
2.2. Lỗi phát âm 
Người Việt khi học tiếng Anh họ gặp 
phải khó khăn đáng kể trong việc xác định 
các đơn vị từ trong các phát ngôn cụ thể 
bởi vì sự đa dạng về độ dài của từ và cấu 
trúc của từ tiếng Anh cũng như sự thiếu rõ 
ràng về đường ranh giới của từ, và bởi 
những thay đổi họ gặp phải với các cách 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 1/2016 No. 1/2016 
 81 
phát âm khác nhau. Mặt khác, trong khi 
đọc khó khăn bị loại bỏ bởi thói quen 
chuẩn mực của việc bỏ trống giữa các từ. 
Ví dụ: live in [li- vin] 
3. Đối chiếu âm đầu 
3.1. Hệ thống âm đầu tiếng Việt và 
phụ âm tiếng Anh 
Cách mở đầu của âm tiết trong 
tiếng Anh và tiếng Việt nhìn chung khá 
giống nhau: bộ máy phát âm khép lại 
dẫn đến việc cản trở không khí một cách 
hoàn toàn hoặc bộ phận, sau đó mở ra, 
tạo nên một hiệu quả âm học, một tiếng 
động đặc thù. Nói cách khác, âm tiết 
trong tiếng Anh đều bắt đầu bằng một 
phụ âm.Có thể hình dung hệ thống phụ 
âm của tiếng Anh như sau: 
Trong tiếng Anh có 24 phụ âm, bao 
gồm /b, p , m, f, v, w, , , t, d, n, s, z , l 
,  , , r , t , d , k, g , ŋ, j, h/. 
Bảng 1: Hệ thống phụ âm đầu tiếng Anh 
Đầu lưỡi Vị trí 
Phương thức 
Môi Răng 
trên 
Lợi 
răng 
Mặt 
lưỡi 
Gốc 
lưỡi 
Thanh 
hầu 
Vô thanh p t k 
Ồn 
Hữu thanh b d g Tắc 
Vang m n  
Vô thanh t 
Tắc xát 
Hữu thanh d 
Vô thanh f  s  h 
Ồn 
Hữu thanh v  z  
Xát 
Vang l r 
Bán nguyên âm w j 
Trong đó có hai bán nguyên âm: /w, j/ 
Trong tiếng Việt có 22 phụ âm đầu, bao gồm: /b, m, f, v, t, t’, d, n, z, , s, ş, c, , 
, l, k, χ, ŋ, , h, / 
Bảng 2: Hệ thống âm đầu tiếng Việt 
Đầu lưỡi Vị trí 
Phương thức Môi 
Bẹt Quặt 
Mặt 
lưỡi 
Gốc 
lưỡi 
Than
h 
hầu 
Bật hơi th 
Vô 
thanh 
t 
 
c 
k 
 Ồn 
Không 
bật 
hơi Hữu 
thanh 
b 
d 
Tắc 
Vang m n  ŋ 
Vô thanh f s ş Χ h 
Ồn 
Hữu thanh w z ,  Xát 
Vang l 
Như vậy, về số lượng, âm đầu trong 
tiếng Anh nhiều hơn so với tiếng Việt từ 2 
âm vị. Trong các âm tắc, xát và âm tắc 
xát trong tiếng Anh có sự đối lập đều đặn 
giữa các cặp vô thanh/hữu thanh: p/b; 
t/d; k/g; f/v; / ; s/z; /; t/d do đó 
cân đối hơn tiếng Việt. Về chất lượng, các 
phụ âm đầu trong tiếng Việt và tiếng Anh 
có một số khác biệt có thể gây khó khăn 
trong quá trình học tiếng. 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 1/2016 No. 1/2016 
 82 
Một sự khác biệt nữa là trong tiếng 
Anh, âm đầu có thể do một tổ hợp từ 2 
đến 3 phụ âm đảm nhận; chẳng hạn: 
spring (mùa xuân), split (sự chia sẻ), 
strike (cuộc đình công), screw (đinh 
ốc),... Âm đầu tiếng Việt hiện đại không 
còn các tổ hợp phụ âm. 
3.2. Một số lỗi phát âm 
* /p/: do trong tiếng Việt không có 
phụ âm này, nên đa số học sinh phát âm 
/p/ - vô thanh với luồn hơi mạnh, khi phát 
âm phải bậc hơi thành [b] hữu thanh như 
trong tiếng Việt. 
* //: do trong tiếng Việt không có 
âm xát đầu lưỡi và răng nên khi phát âm 
phụ âm này của tiếng Anh, học sinh thể 
hiện âm này như một âm tắc đầu lưỡi bẹt 
bật hơi [] trong tiếng Việt. 
* //: cũng như trường hợp trên, 
học sinh thể hiện âm này như một âm tắc 
đầu lưỡi bẹt hữu thanh không bật hơi [d]. 
* //: do không có âm xát mặt lưỡi 
này trong ngôn ngữ mẹ nên học sinh thể 
hiện phụ âm này như một âm xát đầu lưỡi 
quặt []. 
* //: cũng như trường hợp trên, 
học sinh thể hiện âm này như một âm xát 
đầu lưỡi bẹt [z] trong tiếng Việt. 
* /t/: do trong ngôn ngữ mẹ không 
có âm tắc xát nên học sinh thể hiện phụ 
âm này như là một âm tắc mặt lưỡi [c] 
trong tiếng Việt. 
*/d/: cũng như trường hợp trên, 
học sinh thể hiện âm này như một âm xát 
đầu lưỡi bẹt [z] 
4. Kết luận 
Trên đây chỉ mới là một vài suy nghĩ 
về những lỗi phát âm trong quá trình dạy 
học cho sinh viên Trường Đại học Xây dựng 
Miền Trung. Bài viết này chỉ làm công việc 
đối chiếu tiếng Anh với tiếng Việt trên bình 
diện ngữ âm - âm vị với mục đích chỉ ra 
những lỗi phát âm chính trong quá trình học 
tiếng Anh, giúp cho những sinh viên đang 
theo học chương trình tiếng Anh ở trường có 
thể hạn chế những điểm thiếu chính xác khi 
nói tiếng Anh, giúp cho những giáo viên, 
sinh viên và những ai quan tâm đến việc 
giảng dạy tiếng Anh có biện pháp học và 
dạy đạt hiệu quả hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Xuân Bá, Quang Minh, 2006. Luyện phát âm và đánh dấu trọng âm tiếng Anh. NXB Hà Nội. 
2. Phạm Đăng Bình, 2002. Thử đề xuất một cách phân loại lỗi của người học ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng 
học giao thoa ngôn ngữ - văn hóa, Ngôn ngữ, 58-72. 
3. Hà Văn Bửu, 1990. Common mistakes in English made by Vietnamese. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. A.S. Hornby and E.C. Parnwell, 1992. An English Reader’s dictionary, Oxford University Press. 
5. David Brazil, 1994. Pronunciation for Advanced learners of English, Teacher’s Book, Cambridge University 
Press. 
6. Flege, J.E, 1987. A critical period for learning to pronounce foreign languages, Applied Linguistics. 

File đính kèm:

  • pdfdoi_chieu_cau_truc_am_tiet_va_am_dau_tieng_anh_voi_tieng_vie.pdf
Tài liệu liên quan