Chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – Tiếng Nhật của sinh viên ngành ngôn ngữ Anh, trường đại học ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết sử dụng Bảng điều tra chiến lược học ngôn ngữ do Oxford thiết kế, khảo
sát chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, Trường
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh. Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng
chiến lược tương đối cao. Trong đó, nhóm chiến lược mà sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm
chiến lược siêu nhận thức. kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và
nhóm chiến lược ghi nhớ, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù
đắp. Không có sự khác biệt về giới tính và cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học ngoại ngữ
thứ hai – tiếng Nhật
48 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 55 (05/2019) 48-55 CHIẾN LƯỢC HỌC NGOẠI NGỮ THỨ HAI – TIẾNG NHẬT CỦA SINH VIÊN NGÀNH NGÔN NGỮ ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH AN ANALYSIS OF ENGLISH MAJOR STUDENTS’ LANGUAGE LEARNING STRATEGIES OF JAPANESE AS A SECOND FOREIGN LANGUAGE AT BANKING UNIVERSITY HO CHI MINH CITY Lưu Hớn Vũ*§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§ Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/11/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/5/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/5/2019 Tóm tắt: Bài viết sử dụng Bảng điều tra chiến lược học ngôn ngữ do Oxford thiết kế, khảo sát chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh. Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng chiến lược tương đối cao. Trong đó, nhóm chiến lược mà sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược siêu nhận thức. kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược ghi nhớ, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù đắp. Không có sự khác biệt về giới tính và cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật. Từ khoá: chiến lược học ngôn ngữ; ngoại ngữ thứ hai; tiếng Nhật Abstract: This paper used Oxford’s Strategy Inventory for Language Learning to analysis English Major Student’ Language Learning Strategies of Japanese as a Second Foreign Language at Banking University Ho Chi Minh City. Survey results show that students have a high frequency of strategic use. Among them, the most used group of strategies is the metacognitive strategies, next is the social strategies, the cognitive strategies and the memory strategies, the least used are the affective strategies and the compensation strategies. There is no difference in gender and grade in the use of Japanese as second foreign language learning strategies. Keywords: language learning strategies; second foreign language; Japanese 1. Đặt vấn đề Chiến lược học ngoại ngữ là hành động và phương pháp mà người học sử dụng nhằm đạt được những tiến bộ trong việc học ngoại ngữ (Oxford, 1999). Từ những năm 90 của thế kỉ XX, chiến lược học ngoại ngữ *Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh đã trở thành lĩnh vực thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu giáo dục ngoại ngữ trên thế giới và đã đạt được nhiều thành quả đáng kể (McDonough, 1999; Ellis, 1994). Song, tại Việt Nam hiện nay, thành quả nghiên cứu về chiến lược học ngoại Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 49 ngữ, đặc biệt là chiến lược học ngoại ngữ thứ hai (SFL) – tiếng Nhật, vẫn còn rất hạn chế. Việc tìm hiểu về tình hình chiến lược học SFL tiếng Nhật không chỉ hữu ích trong việc giải thích những khác biệt cá nhân của người học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với việc giảng dạy tiếng Nhật. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải tiến hành nghiên cứu chiến lược học của sinh viên học SFL tiếng Nhật. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm câu trả lời cho 3 vấn đề sau: (1) Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật như thế nào? (2) Có sự khác biệt về yếu tố cá thể – giới tính trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật không? Nếu có, biểu hiện cụ thể ở những chiến lược nào? (3) Có sự khác biệt về yếu tố cá thể – cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật không? Nếu có, biểu hiện cụ thể ở những chiến lược nào? 2. Cơ sở lí luận Nghiên cứu của chúng tôi dựa trên lí thuyết về chiến lược học tập ngôn ngữ (language learning strategies) của Oxford đưa ra vào năm 1990. Theo Oxford, chiến lược học tập ngôn ngữ được chia làm hai nhóm là nhóm chiến lược trực tiếp (direct strategies) và nhóm chiến lược gián tiếp (indirect strategies). Nhóm chiến lược trực tiếp là nhóm chiến lược tiến hành xử lí nhận thức về ngôn ngữ được học, vì vậy có mối liên hệ trực tiếp với ngôn ngữ được học. Nhóm chiến lược trực tiếp bao gồm ba nhóm nhỏ là nhóm chiến lược ghi nhớ (memory strategies), nhóm chiến lược nhận thức (cognitive strategies) và nhóm chiến lược bù đắp (compensation strategies). Trong đó, nhóm chiến lược ghi nhớ hữu ích cho việc đưa thông tin vào ghi nhớ lâu dài, khi giao tiếp cần thì có thể xuất ra từ trong ghi nhớ; nhóm chiến lược nhận thức dùng để hình thành và chỉnh sửa mô hình tâm lí nội bộ, tiếp nhận và xuất ra những thông tin về ngôn ngữ được học; nhóm chiến lược bù đắp dùng để bù đắp những khiếm khuyết về kiến thức ngôn ngữ. Nhóm chiến lược gián tiếp là nhóm chiến lược có tác dụng gián tiếp đến quá trình học tập của người học, thông qua các hoạt động như tập trung chú ý, lên kế hoạch, đánh giá, tìm kiếm cơ hội, kiểm soát sự lo lắng, tăng cường hợp tác, vì vậy nó có tác dụng phụ trợ đối với việc học tập ngôn ngữ. Nhóm chiến lược gián tiếp bao gồm ba nhóm nhỏ là nhóm chiến lược siêu nhận thức (metacognitive strategies), nhóm chiến lược xúc cảm (affective strategies) và nhóm chiến lược xã hội (social strategies). Trong đó, nhóm chiến lược siêu nhận thức có thể giúp người học kiểm soát quá trình học tập của bản thân; nhóm chiến lược xúc cảm giúp người học kiểm soát tình cảm, quan niệm và thái độ có liên quan với việc học tập ngôn ngữ; nhóm chiến lược bù đắp thường dùng trong các tình huống giao tiếp, nhằm làm giảm những lo lắng và khó khăn của người học. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Tham gia điều tra là 78 sinh viên năm 2 và năm 3 ngành Ngôn ngữ Anh tại Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh (BUH). Trong đó, có 8 sinh viên nam và 70 sinh viên nữ, có 59 sinh viên năm 2 và 19 sinh viên năm 3. Các sinh viên này hiện đang học SFL là tiếng Nhật. Chúng tôi chọn sinh viên ở hai cấp lớp này là vì trong chương trình đào tạo ngành Ngôn ngữ Anh của BUH các học phần SFL tiếng Nhật chỉ được phân bổ vào năm 2 và năm 3. Tất cả 78 phiếu thu được đều là phiếu hợp lệ. Sinh viên trả lời đầy đủ tất cả các câu hỏi có trong phiếu. 3.2. Công cụ thu thập dữ liệu Chúng tôi sử dụng Bảng điều tra chiến lược học ngôn ngữ (Strategy Inventory for 50 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Language Learning, viết tắt là SILL) do Oxford thiết kế vào năm 1990 làm công cụ thu thập dữ liệu. SILL là công cụ điều tra chiến lược học ngôn ngữ có độ tin cậy và độ giá trị cao, được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu giáo dục ngoại ngữ. SILL có cấu trúc 6 phần, tổng cộng 50 câu hỏi, sử dụng thang đo 5 bậc của Likert từ “hoàn toàn không sử dụng” đến “luôn luôn sử dụng”. Trong đó, các câu từ Q1 đến Q9 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược ghi nhớ, các câu từ Q10 đến Q23 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược nhận thức, các câu từ Q24 đến Q29 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược bù đắp, các câu từ Q30 đến Q38 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược siêu nhận thức, các câu từ Q39 đến Q44 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược xúc cảm, các câu từ Q45 đến Q50 là các câu hỏi thuộc nhóm chiến lược xã hội. 3.3. Công cụ phân tích số liệu Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 22.0 để phân tích, thống kê số liệu mà chúng tôi khảo sát được. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng SPSS trong các thông kê mô tả, kiểm định trị trung bình của mẫu phối hợp từng cặp (Paired samples T- test) và kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent samples T-test). 4. Phân tích kết quả nghiên cứu 4.1. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Tần suất sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh BUH như sau (xem bảng 1): Bảng 1. Tần suất sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Nhóm chiến lược Mean SD Nhóm chiến lược ghi nhớ 3.5470 0.61923 Nhóm chiến lược nhận thức 3.5989 0.58009 Nhóm chiến lược bù đắp 3.2564 0.68043 Nhóm chiến lược siêu nhận thức 3.8433 0.70670 Nhóm chiến lược xúc cảm 3.3483 0.66947 Nhóm chiến lược xã hội 3.6538 0.69929 Tổng thể 3.5690 0.51938 Oxford (1990) đã từng chia tần suất sử dụng chiến lược ra làm 5 nhóm sau: 4.5 ~ 5.0 biểu thị “luôn luôn sử dụng”, 3.5 ~ 4.4 biểu thị “thường xuyên sử dụng”, 2.5 ~ 3.4 biểu thị “có khi sử dụng”, 1.5 ~ 2.4 biểu thị “rất ít sử dụng”, 1.0 ~ 1.4 biểu thị “hoàn toàn không sử dụng”. Căn cứ vào cách phân nhóm của Oxford và kết quả ở bảng 1 chúng ta có thể thấy, về mặt tổng thể sinh viên SFL tiếng Nhật của BUH có tần suất sử dụng chiến lược tương đối cao (M = 3.5690). Trong đó, nhóm chiến lược siêu nhận thức (M = 3.8433), nhóm chiến lược xã hội (M = 3.6538), nhóm hiến lược nhận thức (M = 3.5989) và nhóm chiến lược ghi nhớ (M = 3.5470) đều có tần suất sử dụng ở mức “thường xuyên sử dụng”, nhóm chiến lược xúc cảm (M = 3.3483) và nhóm chiến lược bù đắp (M = 3.2564) đều có tần suất sử dụng ở mức “có khi sử dụng”. Sau khi tiến hành kiểm định trị trung bình của mẫu phối hợp từng cặp (Paired samples T-test) đối với 6 nhóm chiến lược, chúng tôi được kết quả điều tra như sau (xem bảng 2): Bảng 2. Kết quả kiểm định Paired samples T-test đối với 6 nhóm chiến lược SFL tiếng Nhật Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 51 Nhóm chiến lược nhận thức Nhóm chiến lược bù đắp Nhóm chiến lược siêu nhận thức Nhóm chiến lược xúc cảm Nhóm chiến lược xã hội Nhóm chiến lược ghi nhớ t = -0.920 p = 0.361 t = 3.393 p < 0.05 t = -4.310 p < 0.05 t = 3.030 p < 0.05 t = -1.652 p = 0.103 Nhóm chiến lược nhận thức ------- t = 4.675 p < 0.05 t = -4.573 p < 0.05 t = 4.242 p < 0.05 t = -0.911 p = 0.365 Nhóm chiến lược bù đắp ------- ------- t = -6.085 p < 0.05 t = -0.940 p = 0.350 t = -4.011 p < 0.05 Nhóm chiến lược siêu nhận thức ------- ------- ------- t = 7.700 p < 0.05 t = 3.061 p < 0.05 Nhóm chiến lược xúc cảm ------- ------- ------- ------- t = -4.375 p < 0.05 Bảng 2 cho thấy, thứ tự 6 nhóm chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên như sau: chiến lược siêu nhận thức > chiến lược xã hội, chiến lược nhận thức, chiến lược ghi nhớ > chiến lược xúc cảm, chiến lược bù đắp. Qua đó có thể thấy, trong quá trình học SFL tiếng Nhật, nhóm chiến lược mà sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược siêu nhận thức, kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược ghi nhớ, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù đắp. Sau khi sắp xếp tần suất sử dụng các chiến lược cụ thể theo trật tự từ cao xuống thấp, chúng tôi nhận thấy: Năm chiến lược có tần suất sử dụng cao nhất (M > 4.3) của sinh viên SFL tiếng Nhật lần lượt là Q10 “Tôi đọc hoặc viết từ mới nhiều lần” (M = 4.474; SD = 0.7512), Q33 “Tôi cố gắng tìm phương pháp để học tốt tiếng Nhật hơn” (M = 4.462; SD = 0.7677), Q45 “Nếu tôi nghe không hiểu người khác nói gì, tôi nhờ họ nói chậm hoặc nhắc lại” (M = 4.410; SD = 0.7105), Q12 “Tôi luyện phát âm tiếng Nhật” (M = 4.397; SD = 0.8271), Q50 “Tôi cố gắng tìm hiểu văn hoá Nhật Bản” (M = 4.333; SD = 0.8629). Bốn chiến lược có tần suất sử dụng thấp nhất (M < 2.5) của sinh viên SFL tiếng Nhật lần lượt là Q43 “Tôi ghi lại những cảm nhận học tiếng Nhật của mình trong nhật kí” (M = 1.949; SD = 1.1384), Q26 “Tôi tự tạo ra từ mới nếu tôi không biết từ cần sử dụng đó trong tiếng Nhật” (M = 2.077; SD = 1.1927), Q17 “Tôi viết ghi chú, tin nhắn, thư từ hoặc báo cáo bằng tiếng Nhật” (M = 2.192; SD = 1.0697), Q27 “Khi đọc đoạn văn tiếng Nhật, tôi không tra nghĩa của từng từ mới” (M = 2.462; SD = 1.2963). Điều đáng lưu ý là các chiến lược có tần suất sử dụng thấp đều có độ lệch chuẩn khá cao. Qua đó cho thấy, có sự khác biệt tương đối lớn trong sử dụng chiến lược của sinh viên SFL tiếng Nhật. 4.2. Sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Trong số 78 sinh viên tham gia điều tra, có 8 sinh viên nam (chiếm tỉ lệ 10.3%) và 70 sinh viên nữ (chiếm tỉ lệ 89.7%). Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên nam và sinh viên nữ như sau (xem bảng 3): 52 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Bảng 3. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên nam và sinh viên nữ Nhóm chiến lược Giới tính Mean SD t p Nhóm chiến lược ghi nhớ Nam 3.5000 0.77209 -0.225 0.822 Nữ 3.5524 0.60592 Nhóm chiến lược nhận thức Nam 3.5536 0.51472 -0.232 0.817 Nữ 3.6041 0.59023 Nhóm chiến lược bù đắp Nam 3.3542 0.59387 0.427 0.671 Nữ 3.2452 0.69257 Nhóm chiến lược siêu nhận thức Nam 3.8611 0.79405 0.075 0.941 Nữ 3.8413 0.70236 Nhóm chiến lược xúc cảm Nam 3.6458 0.55946 1.334 0.186 Nữ 3.3143 0.67599 Nhóm chiến lược xã hội Nam 3.5208 0.53776 -0.565 0.573 Nữ 3.6690 0.71700 Bảng 3 cho thấy, sinh viên nam có tần suất sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược xã hội tương đối thấp hơn sinh viên nữ, có tần suất sử dụng nhóm chiến lược bù đắp, nhóm chiến lược siêu nhận thức và nhóm chiến lược xúc cảm tương đối cao hơn sinh viên nữ. Song, sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent samples T-test) ở 6 nhóm chiến lược, chúng tôi phát hiện không có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) về tần suất sử dụng các nhóm chiến lược giữa sinh viên nam và sinh viên nữ. 4.3. Sự khác biệt về cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Trong số 78 sinh viên tham gia khảo sát, có 59 sinh viên năm 2 (chiếm tỉ lệ 75.6%), 19 sinh viên năm 3 (chiếm tỉ lệ 24.4%). Chúng tôi chọn sinh viên ở hai cấp lớp này là vì trong chương trình đào tạo ngành Ngôn ngữ Anh của BUH các học phần SFL tiếng Nhật chỉ được phân bổ vào năm thứ hai và năm thứ ba. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên năm 2 và sinh viên năm 3 như sau (xem bảng 4): Bảng 4. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên năm 2 và năm 3 Nhóm chiến lược Cấp lớp Mean SD t p Nhóm chiến lược ghi nhớ Năm 2 3.5593 0.66921 0.308 0.759 Năm 3 3.5088 0.44184 Nhóm chiến lược nhận thức Năm 2 3.6186 0.57444 0.527 0.600 Năm 3 3.5376 0.60906 Nhóm chiến lược bù đắp Năm 2 3.1780 0.63943 1.821 0.073 Năm 3 3.5000 0.76174 Nhóm chiến lược siêu nhận thức Năm 2 3.9266 0.70593 1.862 0.066 Năm 3 3.5848 0.66134 Nhóm chiến lược xúc cảm Năm 2 3.4040 0.63894 1.300 0.198 Năm 3 3.1754 0.74840 Nhóm chiến lược xã hội Năm 2 3.6921 0.64906 0.850 0.398 Năm 3 3.5351 0.84543 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 53 Bảng 4 cho thấy, sinh viên năm 2 có tần suất sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm chiến lược nhận thức, nhóm chiến lược siêu nhận thức, nhóm chiến lược xúc cảm, nhóm chiến lược xã hội cao hơn sinh viên năm 3, có tần suất sử dụng nhóm chiến lược bù đắp thấp hơn sinh viên năm 3. Song, sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent samples T-test) ở 6 nhóm chiến lược, chúng tôi phát hiện không có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) về tần suất sử dụng các nhóm chiến lược giữa sinh viên năm 2 và sinh viên năm 3. 5. Thảo luận Sau khi phân tích số liệu khảo sát chúng tôi phát hiện, sinh viên SFL tiếng Nhật đã nắm được chiến lược học tiếng Nhật ở một mức độ nhất định. Sinh viên có tần suất sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật khá cao. Nhóm chiến lược mà sinh viên SFL tiếng Nhật sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược siêu nhận thức. Điều này có thể hiểu được, vì sinh viên là những người đã trưởng thành, đại đa số đều có mục đích cụ thể, rõ ràng khi chọn học SFL, đồng thời có năng lực tự giám sát, tự quản lí và tự đánh giá tương đối cao, có khả năng tập trung sự chú ý trong các hoạt động học tập. Nhóm chiến lược siêu nhận thức có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả học tập ngoại ngữ, nếu sinh viên có tần suất sử dụng cao sẽ đạt được nhiều thành công trong việc học ngoại ngữ (Wang, Spencer & Xing, 2009). Song, các kết quả nghiên cứu trước đây lại cho thấy, sinh viên không nhận thấy được tầm quan trọng của nhóm chiến lược siêu nhận thức, tần suất sử dụng nhóm chiến lược này luôn thấp hơn nhóm chiến lược nhận thức. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả không giống với các nghiên cứu trước đây, sinh viên SFL tiếng Nhật có tần suất sử dụng nhóm chiến lược siêu nhận thức cao hơn nhóm chiến lược nhận thức. Sự đối lập này có thể là vì sinh viên SFL tiếng Nhật đã có kinh nghiệm học ngoại ngữ thứ nhất – tiếng Anh, điều này giúp sinh viên có thể quản lí việc học tốt hơn, có khả năng điều tiết quá trình học SFL. Sinh viên SFL tiếng Nhật ít sử dụng nhóm chiến lược xúc cảm. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Chamot, O’ Malley, Kupper & Impink-Hernandez (1987). Điều này rất đáng lo ngại, bởi vì các nhân tố xúc cảm có ảnh hưởng rất lớn đến việc học ngoại ngữ của sinh viên. Những sinh viên học ngoại ngữ thành công là những sinh viên biết cách điều khiển các xúc cảm và thái độ của chính mình. Những xúc cảm tiêu cực sẽ gây trở ngại cho sự tiến bộ trong việc học ngoại ngữ, ngược lại những xúc cảm tích cực sẽ tạo sự vui vẻ, hiệu quả trong học tập. Thực tế cho thấy, rất nhiều sinh viên chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố xúc cảm như lo lắng quá độ, mất tự tin Vì vậy, trong giảng dạy SFL tiếng Nhật, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên cách điều tiết và điều khiển cảm xúc của mình bằng nhóm chiến lược xúc cảm. Nhóm chiến lược mà sinh viên SFL tiếng Nhật ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược bù đắp. Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của God & Kwah (1997), sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược bù đắp. Nhóm chiến lược bù đắp có thể giúp sinh viên vượt qua những hạn chế về kiến thức và đạt được mục đích giao tiếp. Song, sinh viên SFL tiếng Nhật lại sử dụng nhóm chiến lược này với tần suất sử dụng thấp nhất trong 6 nhóm chiến lược. Điều này có thể là vì ưu thế của việc sử dụng tiếng Anh – ngoại ngữ thứ nhất của sinh viên trong giao tiếp. Mặt khác, cũng có thể vì lượng kiến thức tiếng Nhật của sinh viên SFL tham gia khảo sát còn ở mức thấp, chưa đủ để đoán nghĩa của từ, dùng từ hoặc cụm từ khác thay thế, sinh viên không thể không cần sự trợ giúp của các sách công cụ hay các ứng dụng từ điển tiếng Nhật. 54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Không có sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Việc lựa chọn và sử dụng chiến lược giữa sinh viên nam và sinh viên nữ có sự giống nhau, không có sự khác biệt có ý nghĩa. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Oxford & Nyikos (1989), song lại giống với kết quả nghiên cứu của Young & Oxford (1997). Trong mối quan hệ giữa giới tính và chiến lược học ngoại ngữ có thể tồn tại những nhân tố trung gian, giữa chúng không chỉ đơn giản là mối quan hệ tuyến tính. (Liyanage & Bartlett,2012) Không có sự khác biệt về cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, việc sử dụng chiến lược của sinh viên sẽ thay đổi cùng với sự phát triển về trình độ ngoại ngữ của sinh viên (Macaro, 2006), sinh viên ở giai đoạn trung cấp sẽ có tần suất sử dụng chiến lược cao hơn sinh viên ở giai đoạn sơ cấp (Hong – Nam & Leavell, 2006). Sinh viên năm 2 và năm 3 tuy thuộc hai cấp lớp khác nhau, nhưng đều cùng giai đoạn tiếng Nhật sơ cấp. Vì vậy, việc lựa chọn và sử dụng chiến lược giữa sinh viên ở hai cấp lớp này có sự giống nhau, không có sự khác biệt có ý nghĩa. 6. Kết luận Sinh viên SFL tiếng Nhật ngành Ngôn ngữ Anh BUH có tần suất sử dụng chiến lược tương đối cao. Trong 6 nhóm chiến lược, nhóm chiến
File đính kèm:
- chien_luoc_hoc_ngoai_ngu_thu_hai_tieng_nhat_cua_sinh_vien_ng.pdf