Các yếu tố làm giảm động lực học Tiếng Anh

Bài viết nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại Khoa

Kinh tế Trường Đại Học Mở Hà Nội với hai mục tiêu nghiên cứu chính: (i) xác định các yếu

tố làm giảm động lực học tiếng Anh của người học, và (ii) đưa ra một số gợi ý nhằm giảm

thiểu các yếu tố gây giảm động lực học tiếng Anh của sinh viên. Các yếu tố gây mất hứng thú

học tiếng Anh tại Khoa Kinh tế Trường Đại học Mở Hà Nội được xác định không chỉ xuất

phát từ chính người học, mà còn liên quan trực tiếp đến đội ngũ giảng dạy cũng như điều

kiện học tập.

pdf8 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố làm giảm động lực học Tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
CÁC YẾU TỐ LÀM GIẢM ĐỘNG LỰC HỌC TIẾNG ANH
DEMOTIVATING FACTORS IN ENGLISH LANGUAGE LEARNING
Vũ Thị Mai Quế, Hồ Ngọc Trung*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/5/2020
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 2/11/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/11/2020
Tóm tắt: Bài viết nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại Khoa 
Kinh tế Trường Đại Học Mở Hà Nội với hai mục tiêu nghiên cứu chính: (i) xác định các yếu 
tố làm giảm động lực học tiếng Anh của người học, và (ii) đưa ra một số gợi ý nhằm giảm 
thiểu các yếu tố gây giảm động lực học tiếng Anh của sinh viên. Các yếu tố gây mất hứng thú 
học tiếng Anh tại Khoa Kinh tế Trường Đại học Mở Hà Nội được xác định không chỉ xuất 
phát từ chính người học, mà còn liên quan trực tiếp đến đội ngũ giảng dạy cũng như điều 
kiện học tập.
Từ khóa: yếu tố làm giảm động lực; hứng thú; tiếng Anh.
Abstract: The article is aimed at enhancing the quality of English language learning at 
Faculty of Economics, Hanoi Open University. The objectives of the article are: (i) exploring 
the demotivating factors in English learning, and (ii) recommending some solutions to the 
problem. Three groups of demotivating factors addressed in the paper include: those from the 
learners, those from the teachers and those from the learning conditions.
Keywords: demotivating factors, motivation, English language learning.
* Trường Đại học Mở Hà Nội
1. Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện 
nay, tiếng Anh chiếm một vị thế quan 
trọng với tư cách là một ngôn ngữ được 
sử dụng trong giao tiếp nhiều nhất trên thế 
giới. Ở Việt Nam, tiếng Anh là ngôn ngữ 
được sử dụng nhiều chỉ sau tiếng Việt và 
đã trở thành một trong những môn học bắt 
buộc trong hệ thống giáo dục quốc dân. 
Ở Khoa Kinh Tế, Trường Đại học Mở Hà 
Nội, môn học tiếng Anh có thời lượng 12 
tín chỉ, trong đó tiếng Anh cơ bản 3 cấp 
độ chiếm 9 tín chỉ, 3 tín chỉ còn lại dành 
cho tiếng Anh chuyên ngành. Có thể nhận 
thấy mặc dù tiếng Anh là một môn học 
quan trọng trong chương trình đào tạo, là 
một trong những chuẩn đầu ra của ngành, 
nhưng động lực học tập của sinh viên chưa 
được cao, và hệ lụy là kết quả học tập môn 
học này hiện nay chưa được như kỳ vọng. 
2. Động lực là yếu tố quan trọng 
quyết định thành công hay thất bại trong 
quá trình học ngôn ngữ của bất kỳ ai. 
Chúng ta dễ dàng nhận thấy một người 
học sẽ thành công nếu họ có động lực 
rõ ràng. Điều này đã được chứng minh 
trong rất nhiều các công trình của các nhà 
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 73 (11/2020) 19-26
20 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nghiên cứu. Tuy vậy, cũng cần hiểu rõ 
một người học có động lực là như thế nào; 
làm thế nào để chúng ta có thể tạo, phát 
triển và duy trì động lực cho người học? 
Các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà sư 
phạm và người học đều đồng ý rằng động 
lực đóng một vai trò quan trọng trong quá 
trình lĩnh hội ngôn ngữ thứ hai. Dornyei 
(2001) cho rằng quan niệm về động lực 
được thể hiện trong hành vi của người 
học. Pourhosein Gilakjani, Leong, and 
Saburi (2012) tin rằng thành công của 
bất kỳ hành động nào cũng phụ thuộc rất 
nhiều vào mức độ cố gắng cũng như sự 
khao khát đạt được thành công. Các nhà 
nghiên cứu xem đây là một yếu tố tâm 
lý – và gọi đó là động lực. Động lực đó 
chính là lực tạo ra, thúc đẩy, và mô phỏng 
hành vi. Động lực là yếu tố quan trọng 
chỉ ra khả năng giao tiếp của người học. 
Nói đến động lực là nhắc đến sự kết hợp 
của sự nỗ lực, khao khát và thái độ mong 
muốn đạt được mục tiêu trong việc học 
ngôn ngữ. Động lực mang lại cho người 
học mục tiêu và phương hướng cụ thể và 
rõ ràng. Do đó, nó đóng vai trò then chốt 
trong việc học ngoại ngữ. Thiếu động 
lực sẽ gây ra một số khó khăn nhất định 
cho người học. Không có khao khát học, 
người học sẽ thất bại trong việc đạt kết 
quả học ngôn ngữ.
Huitt (2001) cho rằng, chú trọng đến 
động lực sẽ giúp người học phát huy được 
động lực học tập của họ, thậm chí kể cả 
khi họ không đủ động lực bên trong bản 
thân mình. Có thể nói rằng, các nhà sư 
phạm cần lưu ý đến tầm quan trọng của 
động lực trong quá trình học ngôn ngữ của 
người học và qua những sự thay đổi này, 
họ sẽ giúp người học phát triển được động 
lực của chính mình.
Tiếp cận vấn đề theo hướng định 
tính, với phương pháp nghiên cứu chủ đạo 
là miêu tả, bài viết nhằm mục đích nâng 
cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại 
Khoa Kinh tế Trường Đại Học Mở Hà Nội; 
với hai mục tiêu nghiên cứu cụ thể sau:
 Xác định các yếu tố làm giảm 
động lực/ hứng thú học tiếng Anh của 
người học;
Đưa ra một số gợi ý nhằm giảm 
thiểu các yếu tố gây giảm động lực học 
tiếng Anh của sinh viên.
Kết quả của bài viết này sẽ giúp làm 
rõ thêm các yếu tố gây giảm hứng thú học 
ngoại ngữ của sinh viên; chỉ ra được sự ảnh 
hưởng của động lực và yếu tố giảm động 
lực trong học tiếng Anh, qua đó có thể nhìn 
nhận và đánh giá lại tầm quan trọng của 
động lực cũng như ảnh hưởng của yếu tố 
giảm động lực trong thực trạng học tiếng 
Anh tại Khoa Kinh Tế hiện nay. Thêm vào 
đó, giáo viên và người học có thể hiểu rõ 
nhau hơn, từ đó đưa ra mục tiêu rõ ràng để 
việc dạy và học trở nên hiệu quả.
3. Có thể nói giảm động lực 
là một thuật ngữ khá mới mẻ trong 
việc học ngoại ngữ hiện nay. Theo từ 
điển Cambridge trực tuyến (https: //
dictionary.cambridge.org/), khái niệm 
giảm động lực (demotivation) được hiểu 
là sự thiếu đi hứng thú và nhiệt tình khi 
làm một việc gì đó. Còn theo Deci & 
Ryan (1985), giảm động lực có nghĩa 
là không có động lực do cá nhân thiếu 
hứng thú và cảm giác không có năng lực 
khi đối mặt với một hoạt động nào đó. 
Dornyei (2001) định nghĩa giảm động 
lực như là tác động ngoại biên – làm 
giảm hoặc xóa bỏ nền tảng động lực của 
một dự định mang tính hành vi hay của 
một hành động đang diễn ra. Dornyei 
(2001) cũng coi sự giảm mức độ tự tin và 
thái độ tiêu cực như là yếu tố giảm động 
lực trong quá trình học ngoại ngữ. Sự 
mất đi hứng thú và niềm vui trong việc 
21Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
học có thể xuất phát từ rất nhiều nguyên 
nhân, ví dụ như từ giáo viên và phương 
pháp giảng dạy, từ chính người học, từ 
điều kiện học tập như điều kiện cơ sở vật 
chất và nội dung sách giáo khoa.
Cũng giống như động lực thì yếu tố 
làm giảm động lực cũng được chia làm hai 
kiểu: yếu tố làm giảm động lực xuất phát 
từ bên trong và yếu tố làm giảm động lực 
xuất phát từ bên ngoài. 
Yếu tố giảm động lực trong học tập 
là những tác nhân gây giảm sút về động 
lực thúc đẩy học tập và làm việc của một 
cá nhân. Những người học thiếu động lực 
đã từng được khuyến khích, nhưng trong 
một số tình huống, từ lý do khách quan 
không mong muốn, họ lại bị mất đi động 
lực. Sự giảm động lực có thể xuất hiện 
khi một cá nhân có một sự lựa chọn khác 
hoặc khi họ bị mất tập trung. Ví dụ như, 
một sinh viên thay vì đi đến trường thì lại 
quyết định ở nhà chơi games.
Sự giảm động lực có thể được hiểu 
như một quá trình giảm sút hoặc làm yếu 
đi sự hứng thú và động lực của người học 
và liên quan đến yếu tố cả trong lẫn ngoài.
Theo các nhà nghiên cứu (Dornyei, 
2001; Harmer, 2001), yếu tố giảm động 
lực của người học được chia thành ba 
nhóm chính như sau:
3.1. Nhóm yếu tố liên quan đến 
giáo viên
Theo Dornyei (2001), các yếu tố 
làm giảm động lực liên quan đến người 
dạy bao gồm: thái độ, cam kết, năng lực 
và phương pháp giảng dạy.
3.1.1. Thái độ của giáo viên: Động 
lực học của sinh viên bị ảnh hưởng trực 
tiếp bởi giáo viên. Hiển nhiên thái độ của 
giáo viên có tác động không nhỏ đến động 
lực và thành tích của người học. Việc 
người dạy cần giúp người học có được 
động lực bên trong trở thành một trong 
những nhiệm vụ quan trọng của giáo viên 
khi mà giáo viên là người có trách nhiệm 
đưa ra các hoạt động trong lớp, phương 
pháp giảng dạy và tổ chức lớp học. Do đó, 
tất cả các hoạt động trong quá trình dạy 
và học đều nên điều chỉnh theo nhu cầu 
cá nhân, sở thích và khả năng của người 
học. Người dạy cần duy trì thái độ tích cực 
đối với môn học của mình. Theo William 
& Burden (1997), bên cạnh việc giáo viên 
trình bày nội dung môn học cho sinh viên 
thì thái độ và tính cách tích cực của giáo 
viên có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến 
động lực học của sinh viên. Hầu hết người 
học có xu hướng bị tác động bởi cảm xúc 
cá nhân của họ đối với những người dạy 
của mình. Vì vậy, cách nhìn nhận về người 
dạy và về sự tương tác giữa giáo viên và 
người học có ảnh hưởng lớn đến động lực 
học. Người học có thể sẽ cảm thấy nản chí, 
mất phương hướng, lơ đễnh, lười biếng, 
buồn ngủ và mất trật tự trong giờ học. 
Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình 
giảng dạy và hiệu quả tiếp thu của người 
học. Nói theo cách khác, thái độ thiếu tích 
cực của giáo viên ảnh hưởng trực tiếp đến 
sự giảm động lực học tập của sinh viên.
3.1.2. Sự cam kết theo dõi quá trình 
tiến bộ của sinh viên: Giáo viên là người 
cần tìm các biện pháp thúc đẩy động lực 
học cho sinh viên. Ngoài ra giáo viên cũng 
nên phát triển mối quan hệ tương tác giữa 
thày và trò. Để làm được điều này người 
dạy cần phải tìm hiểu về sở thích, thói 
quen, kế hoạch và mục tiêu tương lai cũng 
như mục đích học ngoại ngữ của người 
học là gì. Khi đã nắm được đặc điểm của 
sinh viên thì giáo viên có thể tổ chức các 
hoạt động và phương pháp giảng dạy phù 
hợp với từng cá nhân sinh viên, từ đó tạo 
nên mối quan hệ đáng tin cậy giữa thày và 
trò, không khí lớp học sẽ trở nên thoải mái 
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
hơn, sinh viên sẽ yêu thích môn học, tạo 
nhiều động lực để họ tham gia các hoạt 
động giảng dạy, từ đó sẽ đạt kết quả tích 
cực cho việc dạy và học.
Thực tế cho thấy, những giáo viên 
nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm trong 
công việc ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ 
tích cực của người học đối với môn học.
3.1.3. Năng lực của người dạy: 
Năng lực của giáo viên có thể được hiểu 
là khả năng đáp ứng thành công một yêu 
cầu bao gồm về mặt thái độ, giá trị và kiến 
thức. Nói một cách khác, đây cũng chính 
là yếu tố quyết định đến quá trình giảng 
dạy tiếng Anh của giáo viên. Các hình 
thức năng lực mà một giáo viên cần có là: 
năng lực sư phạm, năng lực cá nhân, năng 
lực xã hội và năng lực nghề nghiệp.
Năng lực sư phạm của người dạy đó 
là khả năng tổ chức việc học của sinh viên 
bao gồm việc hiểu rõ đặc điểm tính cách sinh 
viên, thiết kế bài giảng, tiến hành và đánh giá 
kết quả và quá trình tiến bộ của sinh viên.
Năng lực cá nhân của người dạy là 
khả năng hòa nhập cộng đồng và thế mạnh 
về tính cách của người giáo viên đó được 
xem như một hình mẫu cho sinh viên và 
cộng đồng noi theo.
Năng lực xã hội là khả năng đóng vai 
trò một bộ phận của cộng đồng xã hội, để có 
thể giao tiếp thành công và hiệu quả với sinh 
viên, cộng đồng và các nghành nghề khác.
Năng lực nghề nghiệp bao gồm khả 
năng hiểu rõ môn học mình dạy một cách 
sâu sắc về cấu trúc, khái niệm, cũng như 
tư duy khoa học bổ trợ cho lĩnh vực mình 
đang giảng dạy
3.1.4. Phương pháp giảng dạy: 
Động lực học tập của sinh viên chịu sự 
ảnh hưởng trực tiếp từ giáo viên và các 
phương pháp giảng dạy được áp dụng 
trong lớp học. Sinh viên luôn mong muốn 
có được sự chỉ dẫn rõ ràng từ giáo viên để 
họ có thể hiểu bài và tiếp thu kiến thức tốt 
hơn trong quá trình học. Động lực đóng 
vai trò như một lực đẩy khuyến khích 
người học học tập, giúp người học làm 
quen và nắm vững các kỹ năng mới cũng 
như giúp họ lĩnh hội kiến thức dễ dàng 
hơn. Hơn nữa, giáo viên cũng như phương 
pháp giảng dạy của họ ảnh hưởng rất lớn 
đến động lực học của sinh viên. Sự hứng 
thú đến trường và mong muốn được học 
tập có thể bị tác động bởi các yếu tố như 
giáo viên, người hướng dẫn, chương trình 
học và bạn bè trong lớp. Trong đó, giáo 
viên là yếu tố quan trọng nhất do họ đóng 
vai trò then chốt trong quá trình học của 
sinh viên. Những lời nhận xét từ giáo viên 
tác động trực tiếp đến động lực học tập 
của sinh viên vì giáo viên là người luôn 
theo sát quá trình phát triển cá nhân họ.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng những 
phương pháp dạy học truyền thống chưa 
thực sự hiệu quả. Việc sử dụng cách học 
tập chủ động (explicit learning/conscious 
learning) trong lĩnh vực ngữ âm, ngữ pháp 
và từ vựng có vẻ rất hạn chế trong việc 
giúp sinh viên đạt được kết quả. Thực tế 
cho thấy các bài giảng đa phương tiện lại 
mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều so với 
phương pháp dạy truyền thống. Giáo viên 
với thái độ tích cực là một thành tố quan 
trọng trong việc tạo nên môi trường học tập 
tương trợ. Giáo viên tự tin có phương pháp 
quản lý lớp học giúp thúc đẩy người học 
tích cực và tạo động lực cho họ trong việc 
học tập. Những giáo viên ưu tiên phương 
pháp dạy lấy người học làm trung tâm có 
môi trường giảng dạy tích cực hơn so với 
phương pháp truyền thống. Nếu người dạy 
nói quá nhiều sẽ tạo ít cơ hội cho người học 
có thể phát biểu hoặc tự mình luyện tập.
while being unconcerned with 
their students’ performance. 
23Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
3.2. Nhóm yếu tố liên quan đến 
người học
3.2.1. Người học thiếu vốn từ vựng 
cơ bản: Từ vựng là một phần không thể 
thiếu trong học ngoại ngữ. Thiếu vốn từ 
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của 
các kỹ năng ngôn ngữ. Không có từ vựng, 
người học không thể diễn đạt ngôn từ 
trong nói và viết, sẽ gặp khó khăn trong 
kỹ năng nghe và đọc hiểu. Thực tế chứng 
minh, người học sẽ gặp vấn đề trong việc 
học do họ phải đối mặt với những từ 
mới và không hiểu nghĩa. Do vậy, nắm 
vững từ vựng luôn là một kỹ năng mang 
tính thử thách đối với người học, họ cần 
được tiếp cận với các phương pháp học 
từ để có thể tiếp thu ý nghĩa của từ một 
cách nhanh và hiệu quả nhất. Có một số 
phương pháp được sử dụng phổ biến như 
học qua danh sách từ (word list), qua thẻ 
từ (fl ash cards).
Việc thiếu vốn từ luôn là một trở 
ngại đối với người học đặc biệt trong giai 
đoạn đầu. Người học sẽ bị mất động lực 
học nếu như họ không nắm vững vốn từ 
vựng tương đối. Vì vậy họ cảm thấy rất 
khó khăn khi tiếp cận bài giảng của giáo 
viên và thấy rằng việc học của bản thân 
ngày càng khó khăn.
3.2.2. Người học thiếu tự tin: Thiếu 
tự tin là một vấn đề tâm lý thông thường 
của người học ngoại ngữ. Một số nguyên 
nhân gây ra sự thiếu tự tin đó là: người 
học đọc ít, ít trải nghiệm, không hiểu bài 
giảng từ đó họ cảm thấy lo lắng và bất 
an khi trình bày ý kiến trước thầy cô và 
các bạn trong lớp học. Ngoài ra việc sợ 
mắc lỗi, xấu hổ, lo lắng, thiếu động lực 
học cũng gây khó khăn cho người học. Họ 
sợ bị các bạn trong lớp cười khi bản thân 
mình mắc lỗi, sợ không thể trình bày quan 
điểm của mình bằng tiếng Anh, hoặc họ sẽ 
kết hợp với tiếng mẹ đẻTâm lý sợ mắc 
lỗi và sợ bị cười nhạo khiến cho người học 
trở nên tự ti, ít tích cực trong việc học và 
thậm chí họ sẽ chọn cách im lặng, không 
tương tác với giáo viên và bạn cùng lớp. 
Hầu hết người học tin rằng việc giáo viên 
động viên họ và giúp họ trở nên tự tin hơn 
khi nói tiếng Anh là rất cần thiết.
3.2.3. Thái độ của người học: Thái 
độ đối với việc học là yếu tố quan trọng 
quyết định mức độ hiệu quả, khả năng giải 
quyết vấn đề, niềm tin với việc học, động 
lực bên trong và bên ngoài trong quá trình 
học của người học.
Đối với giáo viên, một sinh viên giỏi 
là một người luôn háo hức và luôn có thái độ 
tích cực với việc học của mình. Các nghiên 
cứu cho thấy, những sinh viên có động lực 
học tốt hơn sẽ có được nhiều thành công 
hơn, thái độ tích cực của sinh viên đối với 
việc hấp thụ kiến thức sẽ khuyến khích họ 
học môn học tốt hơn. Vì lý do đó mà thái 
độ tích cực và tiêu cực của người học đối 
với việc học có những ảnh hưởng rất lớn 
đến sự thành công trong học tập của họ. 
Thái độ tích cực giúp người học hiểu 
rõ bản chất vấn đề của môn học, khiến 
cho họ cởi mở với việc học, gia tăng sự 
mong đợi từ quá trình học tập, đồng thời 
giúp làm giảm mức độ lo lắng. Ví dụ như, 
những sinh viên có thái độ tích cực đối 
với môn Đọc có nhiều lợi thế được điểm 
cao hơn so với cá nhân có thái độ tiêu cực. 
Theo Bruner (1966), khao khát học tập 
khiến người học thẩm thấu kiến thức hiệu 
quả hơn. Phương pháp học, sự mong đợi 
và nỗ lực vượt qua sự lo lắng trong học 
tập để thành công là rất quan trọng đối với 
người học. Nỗ lực của sinh viên trong việc 
học là con đường duy nhất giúp họ tiếp 
cận kiến thức. Học có nghĩa là thay đổi. 
Người học tiếp thu thông tin bằng việc 
thiết lập cấu trúc của nó trong tư duy. Vì 
thế, trong quá trình thiết lập cấu trúc thông 
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
tin đó, thái độ tích cực hoặc tiêu cực trong 
việc chấp nhận thông tin, cởi mở với việc 
học hay không, mức độ mong đợi cao hay 
thấp, mức độ lo lắng nhiều hay ít đều là 
các nhân tố quan trọng.
Tình trạng quá lo lắng sẽ khiến 
người học giảm động lực học, dẫn đến kết 
quả học tập giảm sút, và sau cùng nó ảnh 
hưởng đến sự tự tin của cá nhân người học 
một cách tiêu cực. Vì vậy giáo viên đóng 
vai trò thiết yếu trong việc hỗ trợ sinh viên 
phát triển thái độ tích cực đối với việc học. 
Theo Brookfi eld (1985), giáo viên không 
chỉ là người truyền tải kiến thức mà còn là 
người tạo dựng lòng khao khát học tập cho 
sinh viên. Mục tiêu học tập không chỉ gói 
gọn trong việc nhớ kiến thức, mà hơn nữa 
đó là việc sinh viên nghiên cứu kiến thức, 
nỗ lực học tập và trên hết đó là khả năng 
sử dụng kiến thức đó mới là quan trọng.
3.3. Nhóm yếu tố liên quan đến 
điều kiện học tập
3.3.1. Cơ sở vật chất: Theo Harmer 
(2001), cơ sở vật chất bao gồm kích cỡ lớp 
học, bàn, ghế, ánh sáng, nhiệt độ, và bảng 
viết - những yếu tố này có tác động lớn đến 
quá trình học cũng như thái độ của sinh 
viên đối với môn học. Môi trường học lý 
tưởng cho sinh viên đó là một nơi đầy đủ 
ánh sáng, thoáng đãng và sư phạm, như vậy 
sẽ giúp họ có động lực và không bị phân tán 
trong việc học. Giáo viên cần bố trí và trang 
trí phòng học ngoại ngữ với nhiều màu sắc 
tươi sáng, để giúp sinh viên cảm thấy thoải 
mái khi tương tác trong giờ học. Trong một 
phòng học, ấn tượng ban đầu hết sức quan 
trọng, sự bày trí như: các posters, hoa lá, 
đồ vật ngộ nghĩnh dễ thương có ảnh hưởng 
mạnh mẽ đến bầu không khí học tập.
Một khía cạnh khác của cơ sở vật 
chất đó là số lượng sinh viên trong lớp. 
Nếu lớp học quá đông, sinh viên cảm thấy 
khoảng trống riêng tư của mình bị ảnh 
hưởng. Do vậy, giáo viên cần lưu ý đến 
vấn đề này bằng cách bố trí lại trang thiết 
bị trong lớp để tránh cho sinh viên cảm 
thấy quá đông đúc.
3.3.2. Không khí lớp học: Bầu không 
khí của lớp học có mối quan hệ trực tiếp 
với phong cách quản lý lớp của giáo viên. 
Giáo viên tạo ra một lớp học sáng tạo bằng 
việc áp dụng các kỹ năng quản lý lớp phù 
hợp nhằm thiết lập mối quan hệ tích cực và 
chủ động giữa thày và trò. Do đó, người dạy 
cần phải tạo ra một lớp học hấp dẫn, định 
hướng theo nhiệm vụ và có tổ chức chặt chẽ; 
trong đó mối quan hệ thày trò dựa trên sự 
tôn trọng lẫn nhau, hợp tác và hài lòng. Giáo 
viên và người học chịu trách nhiệm đạt mục 
tiêu chung. Vì vậy, trong một lớp học có tổ 
chức, sự mong đợi về hành vi và học tập rất 
dễ nhận thấy và giáo viên là người đưa các ý 
niệm và môn học phù hợp.
Giám sát và quản lý lớp học là một 
trong những nhiệm vụ của giáo viên vì 
kỷ luật và quản lý lớp học rất có hiệu quả 
trong việc tạo ra môi trường học tập tốt để 
có thể đạt được mục tiêu giáo dục. Giáo 
viên nên tạo không khí lớp học vui tươi và 
hấp dẫn cũng như cần có thái độ kỷ luật 
đối với những trường hợp vi phạm, duy trì 
mối quan hệ mang tính xây dựng và tương 
trợ với sinh viên trong và ngoài lớp.
Giáo viên cần thu hút người học 
bằng các cách khác nhau và tập trung sự 
chú ý của họ bằng cách nhấn mạnh vào 
tầm quan trọn

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_lam_giam_dong_luc_hoc_tieng_anh.pdf
Tài liệu liên quan