Ý nghĩa của từng bộ môn và sự liên thông giữa các bộ môn trong khu vực ngôn ngữ học Anh với các bộ môn khác trong chương trình cử nhân sư phạm Tiếng Anh
Tóm tắt. Bài viết là một công trình nghiên cứu triết lí nằm dưới từng bộ môn trong khu
vực ngôn ngữ học Anh và tính liên thông giữa các bộ môn này với các khu vực khác trong
chương trình Cử nhân Sư phạm Tiếng Anh (CNSPTA). Dựa trên những lí thuyết Ngôn ngữ
học, Tâm lí học giáo dục (Educational Psychology) và sự mô tả chuẩn đầu ra trong chương
trình CNSPTA mà cụ thể là chương trình hiện đang được sử dụng tại trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, công trình nghiên cứu này bước đầu xem xét cụ thể ý nghĩa và nội dung của
từng bộ môn trong 4 khu vực và tính liên thông giữa các bộ môn và các khu vực đó.
Từ khóa: Ý nghĩa, liên thông, các bộ môn tiếng Anh, Chương trình Sư phạm Tiếng Anh.
ng và dị biệt giữa 2 ngôn ngữ và 2 nền văn hóa tương ứng. Lí thuyết giao tiếp. Khi bàn tới đường hướng giao tiếp trong dạy tiếng Anh dưới ánh sáng của đường hướng giao tiếp trong nghiên cứu ngôn ngữ mà không đề cập đến khái niệm giao tiếp thì là một khiếm khuyết khó khắc phục! Vị trí của môn này nên ở đầu nhằm giúp người học nắm được khái niệm cơ bản và bản chất của hoạt động giao tiếp, giúp họ hiểu được cái triết lí và trình tự của các môn học khác. Chính bộ môn này sẽ cung cấp triết lí vô hình nhưng hiện hữu của toàn bộ chương trình đào tạo tiếng Anh – theo đường hướng giao tiếp (CLT). Bộ môn này đề cập đến định nghĩa, bản chất, loại hình giao tiếp và những khái niệm khác có liên quan. Hai loại hình giao tiếp được đề cập là hữu ngôn (verbal) và phi ngôn (non-verbal). Giao tiếp trong thực tế là sự lồng ghép giữa 2 loại hình này. Chính bộ môn này cũng đã lí giải sự có mặt của bộ môn Văn hóa – Văn 127 Trần Xuân Điệp minh Anh – Mỹ (Anglophone Culture and Civilization) trong các chương trình đào tạo tiếng Anh. Phương pháp Nghiên cứu khoa học. Đúng như tên gọi của nó, bộ môn này giúp người học tập để trở thành người nghiên cứu độc lập, tạo điều kiện để người học có thể phát triển chuyên môn sau khi tốt nghiệp. Khoa học ở đây là khoa học xã hội và cụ thể, Phương pháp Nghiên cứu khoa học ở đây là phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng (Research Methods in Applied Linguistics). Bộ môn này chắc chắn gắn liền với 2 học phần được bố trí ở học kì 8: Phát triển năng lực tự bồi dưỡng của giáo viên và Phát triển kĩ năng học theo dự án. 2.4. Về khu vực Văn hóa – Văn minh Anh – Mỹ (Anglophone Culture and Civilization) Đây là khu vực cuối cùng song không phải là ít quan trọng nhất. Cuối cùng là khu vực Văn hóa – Văn minh Anh – Mỹ (Anglophone Culture and Civilization). Lí giải cho sự có mặt của khu vực này là: Nghiên cứu ngôn ngữ theo đường hướng giao tiếp, mà trong đó phân tích diễn ngôn là một ví dụ, không thể tách khỏi bối cảnh văn hóa. Điều này đã được Lakoff [20] khẳng định: “Ngôn ngữ và văn hóa luôn đan xen với nhau khăng khít tới mức không thể nghiên cứu cái này mà không nghiên cứu cái kia”. Khái niệm văn hóa ở đây là một khái niệm rộng và bao gộp. Văn hóa có thể bao gồm: đất nước, con người, văn học – nghệ thuật, chính trị, hành chính, luật pháp, giáo dục, phong tục – tập quán, hệ thống giá trị vv.... Theo Emitt at el [21]văn hóa có thể định nghĩa là phương thức tư duy, phương thức cảm giác, phương thức của quan hệ người với người, và lề lối làm việc. Bộ môn này cũng có nhiệm vụ tạo điều kiện cho người học đối chiếu được về văn hóa thông qua ngôn ngữ. Sự khác biệt về văn hóa có thể là sự khác biệt về độ rộng – hẹp của quan hệ liên nhân, vị trí của nghĩa của một thông điệp, tính đúng giờ vv.... Tất cả những vấn đề này, nếu được chuyển tải thành công, sẽ giúp vào khẳng định và tăng cường giao tiếp và hỗ trợ cho khu vực các bộ môn Ngôn ngữ học Anh – vốn là một trong hai trụ cột của Lí luận và phương pháp giảng dạy tiếng Anh. Để kết luận, dạy tiếng Anh theo đường hướng giao tiếp (CLT) có thể tóm gọn thành “Ngôn ngữ không phải chỉ là để giao tiếp mà còn là chỉ có thể có được khi thông quan giao tiếp”. Năng lực giao tiếp (communicative competence) là mục đích cuối cùng của đào tạo ngoại ngữ. Khái niệm này được Hymes (Sđd) đưa ra và phân biệt các năng lực thành phần như sau: 1. Năng lực Ngôn ngữ (Linguistic Competence); 2. Năng lực Văn hóa – Xã hội (Socio-Cultural Comptence); 3. Năng lực Diễn ngôn (Discoursal Competence); 4. Năng lực sử dụng chiến lược giao tiếp (Strategic Competence). Để có một sản phẩm đầu ra có khả năng giao tiếp được bằng tiếng Anh thì phải đảm bảo đào tạo sao cho đạt được năng lực giao tiếp với các năng lực thành phần kể trên mà trong đó năng lực ngôn ngữ chỉ là 1/4. Sản phẩm đầu ra là giáo viên dạy tiếng Anh thì trước hết phải có năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh đã và sau đó là năng lực giảng dạy tiếng Anh như đã trình bày ở trên. Hơn nữa một CTSPTA như đã bàn còn tạo điều kiện để sản phẩm đầu ra có thể phát triển được chuyên môn như tự nghiên cứu và/ hoặc học lên bậc sau đại học. Căn cứ trên những kết quả của những công trình đã có trên thế giới (Sđd), chúng tôi thấy CTSPTA hiện tại cần bổ sung thêm một khu vực kiến thức đó là kiến thức thực tế (Contextual knowledge). Khu vực này nhằm cung cấp các kiến thức xã hội về môi trường mà sinh viên tốt nghiệp sẽ làm việc như các chính sách về dạy ngoại ngữ, về điều kiện làm việc, về thực trạng về đào tạo/ dạy và học tiềng Anh ở Việt Nam. . . Một phần kiến thức này đã được cung cấp qua các 128 Ý nghĩa của từng bộ môn và sự liên thông giữa các bộ môn trong khu vực ngôn ngữ học đợt thực tập sư phạm. Tuy nhiên, ở mức độ khái quát, chúng tôi cho rằng, kiến thức đó tuy rất thực xong chưa đủ về khối lượng, tính toàn diện, và tính hệ thống trong hình thức chuyển tải. 3. Kết luận Bài viết trên đây là một nỗ lực nhằm xem xét ý nghĩa của từng bộ môn tiếng Anh (Khối kiến thức chuyên ngành) cùng mối quan hệ qua lại giữa các bộ môn và nhóm bộ môn tiếng Anh trong chương trình đào tạo CNSPTA, mà cụ thể là của ĐHSPHN. Do thiết lập được liên thông giữa Khối kiến thức chuyên ngành (tiếng Anh) (kí hiệu IV trong Chương trình) và các khối kiến thức ngoài tiếng Anh (có kí hiệu I, II, và III trong chương trình hiện có) chắc chắn vượt ra xa so với khuôn khổ của công trình này nên bài viết chưa đề cập được nội dung cụ thể của từng bộ môn, và tính liên thông đối với các bộ môn đó. Cũng do giới hạn về dung lượng của một bài báo khoa học, bài viết cũng chưa đi thật chi tiết được vào từng bộ môn thuộc Khu vực 1, Phát triển kĩ năng ngôn ngữ Anh và Khu vực 2, Lí luận và phương pháp dạy tiếng Anh. Hơn nữa công trình cũng chưa đề cập đến những chế định (constraints) làm cho khung chương trình mang tính “mặc định” mà chính vì thế mà các tác giả chưa thật hài lòng khi soạn thảo. Mỗi bộ môn tiếng Anh đều có ý nghĩa riêng nhưng đều nằm trong mối quan hệ khăng khít với các bộ môn khác trong cùng khu vực và tất cả đều thống nhất ở một điểm là đóng góp nhằm tạo cho sản phẩm đầu ra một khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh, một khả năng về lí luận và phương pháp dạy tiếng Anh, và một khả năng nghiên cứu độc lập nhằm phát triển chuyên môn sau này. Bài viết mong nhận được ý kiến thảo luận, đóng góp, xây dựng từ qúy độc giả. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Fradd, S. H., & Lee, O., 1998. Development of a knowledge base for ESOL teacher education. Teaching and Teacher Education, 14(7), 761-773. doi: [2] Graves, K., 2009. The curriculum of second language teacher education. In A. Burns & J. C. Richards (Eds.), The Cambridge guide to second language teacher education, pp. 115-124. New York: Cambridge University Press. PMid:19214764 [3] Richards, J. C., 1998. Beyond training: Perspectives on language teacher education. New York: Cambridge University Press. [4] Roberts, J., 1998. Language teacher education. London: Arnold. [5] Johnson, K. E., 2009b. Trends in second language teacher education. In A. Burns & J. C. Richards (Eds.), The Cambridge guide to second language teacher education, pp. 20-29. New York: Cambridge University Press. [6] Kiely, R., & Askham, J., 2012. Furnished imagination: The impact of preservice teacher training on early career work in TESOL. TESOL Quarterly, 46(3), 496-518. doi: 10.1002/tesq.39 [7] Johnston, B., & Goettsch, K., 2000. In search of the knowledge base of language teaching: Explanations by experienced teachers. Canadian Modern Language Review, 56(3), 437-468. [8] Nguyen, M., 2013. The Curriculum for English Language Teacher Education in Australian and Vietnamese Universities. Australian Journal of Teacher Education, 38(11). [9] Piaget, J., 1964. Development and learning. Trong R.E. Ripple a& V.N. Rockcastle (Eds.), Piaget Rediscovered: A Report on the Conference of Cognitive Studies and Curriculum Development, tr. 7–20. Ithaca, New York: Cornell University. 129 Trần Xuân Điệp [10] Le, V. C., 2002. Sustainable professional development of EFL teachers in Vietnam. Teacher’s Edition, November 2002, 32-37. [11] Richards, J. C. & Rodgers, T.S., 1986, 2001, 2007. Approaches and Methods in Language Teaching. Cambridge, Melbourne, New York, Singapore: Cambridge University Press. [12] James, C., 1980. Contrastive Analysis. London: Longman. [13] Trần Xuân Điệp, 2006. “Ảnh hưởng của sự chuyển trọng tâm nghiên cứu ngôn ngữ đối với dạy ngoại ngữ”. Tạp chí Ngôn ngữ, 9(208)/ 2006, ISSN: 0866-7519, tr. 58-66. [14] Hymes, D., 1972. On communicative competence, in J. Pride & J. Holmes (Eds.), Sociolinguistics, Harmsworth: Penguin. [15] Searle, J.R., 1969. Speech Acts: An Essay in the Philosophy of Language. Cambridge: Cambridge University Press. [16] Nunan, D., 1993. Introducing Discourse Analysis. London, Sydney: Penguin Books Ltd. [17] Saussure, F., D., 1973. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Bản dịch). Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [18] Halliday, M.A.K., 1985. Introduction to Functional Grammar. London: Edward Arnold. [19] Corder, S. P., 1973. Introducing Applied Linguistics. Baltimore: Penguin [20] Lakoff, R., 1975. Language and Woman’s Place. New York: Harper & Row. [21] Emmitt, M., Pollock, J., 1989. Language and Learning. Melbourne: Oxford University Press ABSTRACT On the Implication of Each Subject in English Linguistics and the Interrelations between Those and Other Subjects in the Curriculum for BA in English-Teacher Education The article is intended to look at the philosophy that underlies each course and the interrelations between the courses in the English-Teacher BA Curriculum (ETBAC). Based on the related theories in linguistics, and educational psychology, and the expected outcomes of ETBAC, particularly of ETBAC in use at HNUE, the current work provides an initial look into the significance and content of each course in 4 specialized areas as well as the correlations between them. Keywords: Significance, interrelations, English-based courses, ETBAC. 130
File đính kèm:
- 4094_txdiep_3386_2134610.pdf