Ý nghĩa của biểu thức ngôn ngữ cố định dưới ánh sáng của thuyết tín hiệu ngôn ngữ của Ferdinand De Saussure

Tóm tắt: Biểu thức ngôn ngữcố định (BTNNCĐ) trong tiếng Anh là một vấn đềngôn

ngữphức tạp nhưng rất đáng nghiên cứu. Chúng ta sẽcó cái nhìn rõ hơn vềcon đường hình

thành ý nghĩa của các BTNNCĐdựa trên các luận điểm cơbản của F. de Saussure vềbản

chất tín hiệu của ngôn ngữ.

Summary:Foreign language has become a compulsory subject in the curriculums of

most of the universities in our country for many years. How to teach and learn foreign

languages effectively has been mentioned by many specialists. In this report, only some

necessary factors to learn foreign languages successfully in class time and some basic

teaching methods are introduced.

pdf8 trang | Chia sẻ: jinkenedona | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý nghĩa của biểu thức ngôn ngữ cố định dưới ánh sáng của thuyết tín hiệu ngôn ngữ của Ferdinand De Saussure, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 để khẳng định lại giá trị trong các không 
gian khác, tức là sự quy ước phải được phổ 
 biến rộng rãi và được chấp nhận. Như vậy, 
chẳng những việc lập mã tạo mã ngôn ngữ 
mang tính chất quá trình và diễn ra lâu dài 
phức tạp, mà cả quá trình khẳng định giá trị 
của nó thông qua sử dụng cũng là cả một quá 
trình vô cùng phức tạp. Xuất phát điểm của 
việc tạo lập mã ngôn ngữ thường xuất phát từ 
cá nhân, nhưng việc khẳng định giá trị của tín 
hiệu ngôn ngữ lại nhất thiết phải mang tính 
cộng đồng, mang tính xã hội. Theo quan điểm 
ngày nay, từ không chỉ là tín hiệu ngôn ngữ, 
mà còn là tín hiệu văn hóa. Rõ ràng là khi 
dùng từ ngữ, từ không chỉ là tín hiệu biểu đạt, 
mà còn là nơi nội dung được sáng tạo, được 
người dùng thổi vào những ý nghĩa xuất thần. 
Sự đa dạng trong cuộc sống con người tạo ra 
sự đa dạng trong phong cách thể hiện, kết quả 
là ngôn ngữ càng ngày càng hoàn thiện và 
cùng với quá trình này là sự tích lũy, tích hợp 
nội dung, hàm lượng nghĩa trong tín hiệu từ. 
Các đặc điểm của từ vựng như đa nghĩa, đồng 
âm… chính là kết quả tất yếu trong sự phát 
triển của ngôn ngữ. 
CNTT_C
B 
Để chứng minh cho luận điểm của mình, 
chúng tôi xin dẫn ví dụ sau: Theo từ điển 
Phrasal Verbs của Rosemary Courtney 
(Longman, 1998) từ bring back có các nghĩa 
sau đây: 
bring back V + ADV 
1 bring sth/sb back, bring back sth/sb đem 
về, mang về trả lại, đem trả: You must bring 
these library books back next week: Anh phải 
đem trả những cuốn sách thư viện này vào 
tuần tới nhé. 
*2 ~ sth nhớ lại, hồi tưởng, làm sống lại 
(những sự kiện trong quá khứ): The smell of 
these flowers brings back memories: Hương 
thơm của những bông hoa này làm sống lại bao 
nhiêu kỷ niệm. 
*3 ~ sb to sth, bring sb back to sth khôi 
phục cái gì cho ai, giúp ai khôi phục cái gì: 
We must bring him back to health: Chúng ta 
phải giúp anh ấy hồi phục lại sức khỏe. 
*4 ~ sth làm cho một ý tưởng hoặc một 
thưc tế trở lại hoặc tồn tại, dùng lại, duy trì 
phương pháp cũ: Few people these days are in 
favour of bringing back the old punishment 
by death: Một số người ngày nay vẫn thích 
duy trì hình phạt tử hình ngày xưa. 
Trong 4 nghĩa trên, ngoài nghĩa 1, các 
nghĩa còn lại đều mang tính thành ngữ. Vậy 
cơ chế tạo thành các nghĩa của động từ này 
như thế nào? Xét nghĩa 1, bring back là nghĩa 
của bring và back ghép lại với nhau một cách 
cơ học. Như vậy, khi bring và back được tạo 
thành mã, chúng đã có được giá trị ngữ nghĩa 
của mình và mang hai đặc tính đã được 
Saussure chỉ ra; tính võ đoán và tính hình 
tuyến. Tuy nhiên, khi tạo thành tổ hợp bring 
back, nghĩa 1 được tạo thành không phải 
không có nguyên do, vì nó là nghĩa đen do hai 
từ thành tố ghép lại, còn các nghĩa 2, 3, 4 thì 
sao? Theo quan điểm của chúng tôi, các nghĩa 
2, 3, 4 đã được phát triển ra từ nghĩa đen ban 
đầu, trên cơ sở có cải biến. Rõ ràng từ nghĩa 
ban đầu “đem cái gì đó trở lại”, mà bring back 
đã có được nghĩa “nhớ lại, làm sống lại, hồi 
tưởng lại” khi nói về hồi ức, kỷ niệm trong 
quá khứ (nghĩa 2), “khôi phục lại” khi nói về 
một thực trạng xấu nào đó (nghĩa 3), và “duy 
trì, dùng lại” khi nói về một cái gì đó tưởng 
như đã lỗi thời (nghĩa 4). Như vậy, nếu nói về 
sự phát triển nghĩa của từ bring back, thì 
nghĩa của bring back như một đơn vị từ vựng 
(động từ cụm hay động từ thành ngữ), sẽ được 
hình thành sau khi giá trị ngữ nghĩa của bring 
và back đã được khẳng định, và các nghĩa cố 
định 2 – 3 - 4 chỉ có được sau khi bring back 
 khẳng định được nghĩa 1. Chính trong quá 
trình sử dụng ngôn ngữ, các giá trị ngữ nghĩa 
của bring back được hình thành, phát triển và 
trở thành các đơn vị từ vựng mang tính ổn 
định như ngày nay. Có thể khẳng định rằng từ 
hai vỏ âm thanh bring và back với hai ý niệm 
riêng rẽ ban đầu như các tín hiệu ngôn ngữ 
hoàn toàn mang tính võ đoán, sự phát triển 
ngữ nghĩa của bring back sau này là cả một 
quá trình diễn ra trong tư duy logic của con 
người. Rất có thể trong tương lai, cùng với 
nhu cầu thể hiện tư duy của con người, bring 
back còn phát triển thêm các nghĩa khác nữa. 
Thử xem xét ví dụ on the one hand … on 
the other hand… Đây là BTNNCĐ có từ trung 
tâm là hand với cấu trúc giới từ + mạo từ xác 
định + tính từ + danh từ. Từ hand là một danh 
từ đa nghĩa, trong rất nhiều nghĩa của từ hand 
như bàn tay, sự giúp đỡ, nhân công, sự khéo 
tay, kiểu viết tay, hứa hôn… nếu thử ghép bất 
cứ nghĩa nào của từ hand vào BTNN trên 
cũng không được một cụm từ thực sự có 
nghĩa. Vậy nghĩa một mặt và mặt khác của 
BTNNCĐ này được hình thành như thế nào? 
Thiết nghĩ con đường thành ngữ hóa của 
BTNNCĐ này cũng phải trải qua các bước đã 
đề cập đến ở trên, đó là biểu trưng hóa (hai 
bàn tay tượng trưng cho hai mặt khác nhau/ 
đối lập) và quá trình dùng trong cộng đồng đã 
khẳng định sự cố định về mặt cấu trúc cũng 
như ý nghĩa của BTNNCĐ này. Như vậy, các 
tín hiệu ngôn ngữ cấp 1 (các từ đơn lẻ) và các 
tín hiệu ngôn ngữ cấp hai trong đó có 
BTNNCĐ (coi như các tổ hợp từ) được hình 
thành do quy ước trong cộng đồng và mang 
tính võ đoán, nhưng trong nhiều trường hợp 
sự hình thành BTNNCĐ không hẳn là không 
có nguyên do. Chính vì nhận ra sự vận động 
giữa hai nguyên lý có lý do và không có lý do 
trong ngôn ngữ, P. Guiraud đã viết “…Bởi 
vậy tính võ đoán của tín hiệu là một trong 
những điều kiện cho sự hành chức thuận lợi 
của ngôn ngữ… Nhưng tính có lý do là một 
động lực sáng tạo gắn liền với ngôn ngữ xã 
hội… Chỉ sau khi từ được tạo ra, mang tính có 
lý do, những đòi hỏi của chức năng ngữ nghĩa 
mới dẫn tới sự làm mờ dần cái tính có lý do từ 
nguyên đó, tính có lý do từ nguyên này có thể 
bị xóa hẳn đưa tới sự biến đổi ngữ nghĩa của 
từ đó” [Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 3: 92]. 
Tóm lại, ý nghĩa của các BTNNCĐ 
không được ghép lại từ ý nghĩa của các từ 
thành tố, nhưng chúng được hình thành theo 
một nguyên lý nhất định nào đó mang tính 
“không hoàn toàn võ đoán” và “duy lý tương 
đối”. Cùng với thời gian, ngoài tính bất biến, 
ngôn ngữ còn mang tính khả biến. Điều 
Saussure đã khẳng định là “cái chiếm ưu thế 
trong mọi sự biến hóa là tính bền vững của 
chất liệu cũ, sự không trung thành đối với dĩ 
vãng chỉ là tương đối”, và mọi sự biến hóa 
bao giờ cũng dẫn đến “sự di chuyển của mối 
quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu 
hiện” [1:134]. Chính sự thay đổi mối quan hệ 
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là 
một trong các hệ quả của tính võ đoán của tín 
hiệu, và đó là một trong các nguyên nhân tạo 
ra tính đa dạng của ngôn ngữ như phương tiện 
của tư duy. 
CNTT-
CB 
II. KẾT LUẬN 
BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng xuất 
hiện nhiều trong các ngôn ngữ. Chúng rất phổ 
biến trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày do 
tính sẵn có và tiện dụng. Tuy nhiên, đây cũng 
là một trong các đơn vị ngôn ngữ với những 
đặc trưng rất khó tiếp cận, xử lý và sử dụng. 
Với quan niệm BTNNCĐ là một loại từ 
vựng đặc biệt, việc sử dụng quan điểm của F 
 de Saussure về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ 
là một luận cứ khoa học quan trọng giúp 
chúng tôi nghiên cứu ý nghĩa của các 
BTNNCĐ. Các thuật ngữ liên quan đến tín 
hiệu ngôn ngữ đã được F de Saussure đưa ra 
như tính võ đoán, tính hình tuyến, quan hệ 
ngữ đoạn, quan hệ liên tưởng, cái biểu hiện, 
cái được biểu hiện, giá trị ngôn ngữ… được 
chúng tôi vận dụng nhiều trong bài viết để 
phát triển và chứng minh luận cứ của mình. 
Không phải nghi ngờ gì về giá trị ngữ 
nghĩa của các BTNNCĐ vì vai trò thực tế của 
chúng trong hoạt động ngôn ngữ trong đời 
sống xã hội hàng ngày. Ngoài việc nghiên cứu 
nhận diện và phân loại BTNNCĐ về mặt hình 
thức cấu trúc, ngữ nghĩa ngữ pháp và ngữ 
dụng, con đường hình thành ngữ nghĩa của 
các BTNNCĐ là một trong các vấn đề chúng 
tôi đặc biệt quan tâm. Và bước đầu, việc 
nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng của bản 
chất tín hiệu ngôn ngữ của Saussure đã giúp 
chúng tôi có những nhận định ban đầu khá 
quan trọng làm cơ sở cho nghiên cứu trong 
tương lai, đó là: 
CNTT_C
B 
- BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng đặc 
biệt mang bản chất tín hiệu. 
- BTNNCĐ là tổ hợp của các tín hiệu, rồi 
đến lượt mình, nó lại tạo thành chức năng 
tương đương với tín hiệu và hoạt động như 
một tín hiệu mới biểu thị một nội dung, một 
khái niệm, một chức năng. Do đó, BTNNCĐ 
cần được “đối xử” như các tín hiệu bình 
thường khác trong ngôn ngữ. 
- Tín hiệu của BTNNCĐ là một loại tín 
hiệu phái sinh từ các tín hiệu bậc 1 (tín hiệu 
từ). 
- BTNNCĐ là tín hiệu ngôn ngữ mang 
tính hình tuyến và võ đoán, tuy nhiên tính võ 
đoán giữa hai mặt tín hiệu của BTNNCĐ 
thuộc về các cấp độ khác nhau: võ đoán hoàn 
toàn và võ đoán tương đối. 
- Nghĩa cố định của BTNNCĐ được hình 
thành do quá trình tín hiệu hóa dần từ cú pháp 
đến từ vựng. Con đường hình thành nghĩa của 
BTNNCĐ là con đường hình thành nghĩa của 
các tín hiệu bậc 1 và bậc 2, trải qua hai bước 
cơ bản là (1) tạo mã và lập mã và (2) quá trình 
dùng, sử dụng và khẳng định giá trị. 
- BTNNCĐ như một đơn vị từ vựng đặc 
biệt là một trong những kết quả tất yếu của sự 
phát triển ngôn ngữ trên cơ sở phát triển, cải biến 
tiềm năng sẵn có trong nội tại một ngôn ngữ. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Ferdinand de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ 
học đại cương, NXB KHXH, Hà Nội, 1973 
[2]. Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, 
NXB Giáo dục, 1998 
[3]. Đỗ Hữu Châu - Bùi Minh Toán, Đại cương 
ngôn ngữ học tập 1. NXB Giáo dục, 2001 
[4]. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, 
NXB Giáo dục, 1999 
[5]. John Lyons, Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB 
Giáo dục, 2006 
[6]. Lưu Nhuận Thanh, Các trường phái ngôn ngữ 
học phương tây, NXB Lao động, 2004 
[7]. Mak Halliday, Dẫn luận ngữ pháp chức năng, 
NXB ĐH QG Hà Nội, 2001 
[8]. Nguyễn Lai, Những bài giảng về ngôn ngữ học 
đại cương, NXB ĐHQG, Hà Nội, 1999 
[9]. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, 
NXB Giáo dục, 2002 
[10]. Wallace L. Chafe, Ý nghĩa và cấu trúc của 
ngôn ngữ, NXB Giáo dục, 1998♦ 

File đính kèm:

  • pdf08_2010_1223_bt_nn_cd_8854.pdf
Tài liệu liên quan