Ứng dụng văn phạm liên kết trong dịch máy Việt – Anh
Dịch máy là lĩnh vực đang rất được quan tâm do
nhu cầu chuyển ngữ một số lượng lớn văn bản trong
thời gian nhanh nhất. Lịch sử phát triển dịch máy đã
nhắc đến nhiều phương pháp khác nhau: dịch trực tiếp
từng từ, dịch dựa trên luật, dịch máy đa ngôn ngữ,
dịch máy thống kê, dịch máy dựa trên ví dụ, dịch máy
theo ngữ nghĩa đệ quy tối thiểu, dịch dựa trên ràng
buộc.
Hiện nay ở Việt Nam đã tồn tại một số hệ thống
dịch máy như: EVtran - VEtran của Nacentech [9],
Vietgle của Lạc Việt, EVTS của Đại học Công nghệ -
ĐHQG Hà Nội [13], Google Translation của Google,
hệ thống dịch của Đại học Bách khoa - ĐHQG TP Hồ
Chí Minh [21], hệ thống dịch dựa trên việc học luật
chuyển đổi của Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG
TP Hồ Chí Minh [8]. Các hệ thống kể trên chủ yếu là
hệ thống dịch Anh - Việt để tận dụng nguồn tài
nguyên ngôn ngữ phong phú của Tiếng Anh. Số lượng
hệ thống dịch Việt - Anh ít hơn nhiều: chỉ có hai hệ
thống nổi bật là VEtran dựa trên luật và Google
Translation theo cách tiếp cận thống kê.
Do tài nguyên phục vụ cho dịch máy liên quan đến
Tiếng Việt không nhiều, cách tiếp cận dựa trên luật
vẫn được phổ biến nhất ở Việt Nam, đặc biệt là trong
dịch máy Việt - Anh.
Mô hình văn phạm liên kết do D. Sleator và D.
Temperley đưa ra [19] là mô hình hình thức theo kiểu
phụ thuộc. Văn phạm không chứa tập ký hiệu không
kết thúc nên kết quả phân tích cú pháp gọn nhẹ hơn
cây ngữ cấu. Do đặc điểm hoàn toàn từ vựng hóa, văn
phạm liên kết không chỉ mô tả cú pháp mà còn mô tả
từ pháp của ngôn ngữ. Do vậy mô hình văn phạm liên
kết cho phép biểu diễn nhiều hiện tượng đặc biệt chỉ
có trong Tiếng Việt. Ví dụ: thì, thể của động từ, quan
hệ sở hữu ẩn, quan hệ chỉ chất liệu của hai danh từ đi
cạnh nhau, những cụm từ được dùng như đại từ xưng
hô trong Tiếng Việt ("cô ấy", "các bạn"). Những
thông tin này rất hữu ích nếu được sử dụng trong các
hệ thống dịch tự động sang ngôn ngữ khác
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 44 -
Abstract: Link grammar is a new model built for
Vietnamese. This model is able to specify most of
grammatical phenomena and lexical features of
Vietnamese in an intuitive mode. In this paper, we
discuss the ability to apply the link grammar model to
automatic translation from Vietnamese into English.
We also present our translation system using
Annotated Disjuncts (ADJ).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch máy là lĩnh vực đang rất được quan tâm do
nhu cầu chuyển ngữ một số lượng lớn văn bản trong
thời gian nhanh nhất. Lịch sử phát triển dịch máy đã
nhắc đến nhiều phương pháp khác nhau: dịch trực tiếp
từng từ, dịch dựa trên luật, dịch máy đa ngôn ngữ,
dịch máy thống kê, dịch máy dựa trên ví dụ, dịch máy
theo ngữ nghĩa đệ quy tối thiểu, dịch dựa trên ràng
buộc...
Hiện nay ở Việt Nam đã tồn tại một số hệ thống
dịch máy như: EVtran - VEtran của Nacentech [9],
Vietgle của Lạc Việt, EVTS của Đại học Công nghệ -
ĐHQG Hà Nội [13], Google Translation của Google,
hệ thống dịch của Đại học Bách khoa - ĐHQG TP Hồ
Chí Minh [21], hệ thống dịch dựa trên việc học luật
chuyển đổi của Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG
TP Hồ Chí Minh [8]. Các hệ thống kể trên chủ yếu là
hệ thống dịch Anh - Việt để tận dụng nguồn tài
nguyên ngôn ngữ phong phú của Tiếng Anh. Số lượng
hệ thống dịch Việt - Anh ít hơn nhiều: chỉ có hai hệ
thống nổi bật là VEtran dựa trên luật và Google
Translation theo cách tiếp cận thống kê.
Do tài nguyên phục vụ cho dịch máy liên quan đến
Tiếng Việt không nhiều, cách tiếp cận dựa trên luật
vẫn được phổ biến nhất ở Việt Nam, đặc biệt là trong
dịch máy Việt - Anh.
Mô hình văn phạm liên kết do D. Sleator và D.
Temperley đưa ra [19] là mô hình hình thức theo kiểu
phụ thuộc. Văn phạm không chứa tập ký hiệu không
kết thúc nên kết quả phân tích cú pháp gọn nhẹ hơn
cây ngữ cấu. Do đặc điểm hoàn toàn từ vựng hóa, văn
phạm liên kết không chỉ mô tả cú pháp mà còn mô tả
từ pháp của ngôn ngữ. Do vậy mô hình văn phạm liên
kết cho phép biểu diễn nhiều hiện tượng đặc biệt chỉ
có trong Tiếng Việt. Ví dụ: thì, thể của động từ, quan
hệ sở hữu ẩn, quan hệ chỉ chất liệu của hai danh từ đi
cạnh nhau, những cụm từ được dùng như đại từ xưng
hô trong Tiếng Việt ("cô ấy", "các bạn")... Những
thông tin này rất hữu ích nếu được sử dụng trong các
hệ thống dịch tự động sang ngôn ngữ khác.
Mô hình văn phạm liên kết đã được ứng dụng để
xây dựng các hệ thống dịch từ Tiếng Anh sang các
ngôn ngữ châu Âu như Tiếng Đức [24], Nga [23], Thổ
Nhĩ Kỳ [22] hay Sanskrit - một ngôn ngữ của Ấn độ
[12] dựa trên việc chuyển đổi tương ứng các liên kết
giữa hai ngôn ngữ (riêng hệ thống dịch Anh-Nga có
kết hợp thống kê). Các hệ thống đó đã đáp ứng khá tốt
những biến đổi về hình thái như thì, thể, giống, số,
cách. Tuy nhiên, khi ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ
đích có sự khác biệt lớn về cú pháp và từ pháp, khó có
thể đưa ra những bản dịch có chất lượng. Đó cũng là
lý do các hệ thống nói trên chỉ dừng ở mức thử
nghiệm cho một tập câu nhỏ. Một hệ thống dịch khác
dựa trên văn phạm liên kết là hệ thống dịch của đại
Ứng dụng văn phạm liên kết trong dịch máy
Việt – Anh
Application of Link Grammar Formalism in Vietnamese - English
Translation
Nguyễn Thị Thu Hương và Lê Ngọc Minh
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 45 -
học Petronas, Malaysia [1], [2], [3], dịch từ Tiếng Anh
sang Tiếng Indonesia. Hệ thống cho phép tra nghĩa từ,
biến đổi cú pháp và từ pháp thông qua dạng tuyển có
chú giải (Annotated Disjunct - ADJ). Hệ thống đã cho
kết quả dịch khá tốt sang Tiếng Indonesia - một ngôn
ngữ Đông Nam Á cũng chưa có được nguồn tài
nguyên phong phú để xử lý tự động như Tiếng Việt.
Dựa trên khả năng biểu diễn nhiều hiện tượng cú
pháp và từ pháp đặc trưng của Tiếng Việt, chúng tôi
đã xây dựng và thử nghiệm hệ thống dịch máy Việt -
Anh dựa trên dạng tuyển có chú giải. Đây là một hệ
thống dịch máy dựa trên luật với mục đích minh họa
các chức năng biểu diễn Tiếng Việt của mô hình văn
phạm liên kết.
Hệ thống cho phép dịch các cụm từ Tiếng Việt một
cách mềm dẻo hơn các hệ thống dịch khác. Với tập
mẫu thử nghiệm, hiệu quả đạt được của hệ thống
không thua kém các hệ thống dịch máy khác, trong khi
tập luật chuyển đổi của hệ thống lại khá nhỏ gọn.
Trong các mục sau đây, chúng tôi trình bày một số
khái niệm về mô hình văn phạm liên kết, dạng tuyển
có chú giải và giới thiệu hệ thống dịch do chúng tôi
xây dựng.
II. VĂN PHẠM LIÊN KẾT
Văn phạm liên kết bao gồm một tập các từ, mỗi từ
có một yêu cầu liên kết. Một câu được định nghĩa bởi
văn phạm nếu tồn tại một cách để vẽ các cung (liên
kết) phía trên các từ thoả mãn 5 điều kiện về tính
phẳng, tính liên thông, tính thoả mãn, tính thứ tự, tính
loại trừ [19].
Những yêu cầu liên kết được lưu trữ trong một từ
điển. Từ điển chứa các công thức liên kết như trong
bảng 1 dưới đây:
Bảng 1. Công thức liên kết của các từ
Từ Công thức
tôi SV+
yêu SV- & {O+}
cô, bà, anh SV+ or O- & {NtPd+}
ấy, đó, ta {NtPd-}
Với việc tra cứu trên từ điển và khử nhập nhằng
(nếu cần), bộ phân tích cú pháp cho kêt quả phân tích
câu "tôi yêu cô ấy" như trong hình 1.
Định nghĩa hình thức của văn phạm liên kết được
nêu trong [6].
Hình 1. Phân tích câu "tôi yêu cô ấy”
Văn phạm liên kết được xếp vào dòng phụ thuộc vì
cũng biểu diễn mối liên hệ trực tiếp giữa các từ trong
câu. Tuy nhiên văn phạm liên kết có một số điểm
khác biệt:
• Liên kết không định hướng, không có khái niệm
cai trị - phụ thuộc.
• Liên kết có nhãn. Điều này không bắt buộc trong
văn phạm phụ thuộc.
• Văn phạm liên kết cho phép chu trình nên có thể
biểu diễn đồng thời liên kết cú pháp và ngữ nghĩa giữa
các từ.
• Tính phẳng của liên kết, thực chất là tính xạ ảnh
trong văn phạm phụ thuộc, đòi hỏi các cung biểu diễn
liên kết trong một câu không giao nhau khi vẽ trên các
từ. Với yêu cầu tính phẳng, một số quan hệ từ không
lân cận có thể không biểu diễn được trong mô hình
văn phạm liên kết. Ví dụ, trong câu “Cái áo này, dù
rất đắt, tôi vẫn mua”, sau khi vẽ liên kết giữa danh từ
“áo” với tính từ “đắt” và động từ “mua”, sẽ không thể
vẽ liên kết giữa từ “dù” với dấu phảy mà vẫn đảm bảo
tính phẳng. Tồn tại những văn phạm phụ thuộc không
có tính xạ ảnh, nhưng tính phẳng là bắt buộc trong văn
phạm liên kết. Rất may, những câu như trong ví dụ
trên không thường gặp trong thực tế.
Dạng tuyển
Để dễ dàng xử lý tự động, công thức trong từ điển
được chuyển thành các dạng tuyển (disjunct). Một
dạng tuyển bao gồm hai danh sách có thứ tự của các
tên liên kết: danh sách liên kết bên trái và danh sách
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 46 -
liên kết bên phải, được ký hiệu là ((L1, L2,, Lm) (Rn,
Rn-1,, R1)), trong đó L1, L2,, Lm là các kết nối về
phía trái và Rn, Rn-1,, R1 là các kết nối về phía phải.
Ví dụ, ((SV) ()) và ((O) (NPd)) là các dạng tuyển
của từ "cô" trong từ điển được nêu ở trên.
Khi phân tích cú pháp, thay vì phân tích công thức
liên kết, bộ phân tích cú pháp liên kết tìm ra cách tổ
hợp các dạng tuyển của mỗi từ trong câu thỏa mãn các
yêu cầu liên kết. Kết quả phân tích cú pháp của một
câu sẽ chứa những dạng tuyển thỏa mãn các yêu cầu
liên kết của câu đó, chẳng hạn, kết quả phân tích câu
"tôi yêu cô ấy" sẽ như sau:
(tôi, (()(SV)))
(yêu, ((SV)(O)))
(cô, ((O)(NtPd)))
(ấy,((NtPd)()))
III. DẠNG TUYỂN CÓ CHÚ GIẢI
Dạng tuyển có chú giải (Annotated Disjunct, viết
tắt là ADJ) lưu trữ nghĩa của một từ khi đi với dạng
tuyển nào đó. Ví dụ, từ "cô" với dạng tuyển ((O)
(NtPd)) sẽ có nghĩa là "her", trong khi đi với dạng
tuyển(()(NtPd,SV)) có nghĩa là "she", còn đi với
(()(SHA)) từ đó lại có nghĩa là "aunt"
Dạng tuyển có chú giải là một tổ hợp bao gồm (<từ
nguồn>,,) trong đó dạng tuyển
thuộc về từ nguồn. Từ đích là nghĩa của từ nguồn
trong ngôn ngữ đích khi đi với dạng tuyển tương ứng.
Trong hệ thống dịch Việt Anh, các dạng tuyển có chú
giải của câu "tôi yêu cô ấy" sẽ là
(tôi, I,(()(SV)))
(yêu, love, ((SV)(O)))
(cô, her, ((O)(NtPd)))
(ấy,!,((NtPd)()))
(Dấu ! đại diện cho xâu rỗng, chỉ ra từ sẽ bị xóa
khi dịch).
Từ điển ADJ sẽ tập hợp tất cả các ADJ của ngôn
ngữ. Về nguyên tắc, từ điển ADJ phải bao gồm các bộ
ba: từ, dạng tuyển và nghĩa của từ trong Tiếng Anh
khi sử dụng với dạng tuyển tương ứng. Tuy nhiên, số
dạng tuyển của mỗi từ là rất lớn. Khi từ điển song ngữ
đã gồm gần 100.000 mục từ, mỗi mục từ đó lại được
gắn với mọi dạng tuyển của từ nguồn, kích cỡ của từ
điển ADJ sẽ vô cùng lớn.
Để giảm kích cỡ, tử điển ADJ được xây dựng từ từ
điển văn phạm liên kết, chú giải thêm nghĩa Tiếng
Anh của từ bên cạnh công thức. Để làm được như vậy,
từ điển văn phạm liên kết được xây dựng và chỉnh sửa
theo hướng mỗi công thức chỉ thể hiện một cách sử
dụng của từ. Từ điển ADJ cũng được dùng thay cho
từ điển văn phạm liên kết trong giai đoạn phân tích cú
pháp. Dưới đây là ví dụ một số mục từ trong từ điển
ADJ:
bởi_vì,vì because: (GT_DT+ or CL+) & {PH+} & (EV-
or (CO+ or QHT+))
sở_dĩ !
là_do,là_vì because
rằng that: R- & CL+
/verb.transitive.trans: ((({TĐT1-} & {TĐT2_1-} &
{RpVt- or RtVt- or RfVt- or RhVt-} & {TĐT4-}) or
TT_ĐT- or ({TT_ĐT-} & TĐT5-)) & {DT_ĐT- or ĐT_ĐT-
or THI_ĐT- or LT_ĐT- or BI-} & {ĐT_XONG+} &
{ĐT_DT+} & {ĐT_TT+} & {ĐT_GT+} & {ĐT_LT+} & {THT-
or THS+} & ({EV+} & {SDT5- or CL-} & {CO-})) or
({DT_ĐT-} & BI-)
Chú ý rằng trong từ điển trên, mục
/verb.transitive.trans là mục chứa công thức liên kết
của các động từ ngoại động (trừ một số ngoại lệ có
công thức liên kết riêng) nên được liên kết với một từ
điển song ngữ con chứa nghĩa của từng động từ với
công thức liên kết đã nêu. Ví dụ:
a_tòng act_as_an_accomplice_to
a_tòng imitate
am_hiểu know_well
am_hiểu realize
an_bài predestine
an_bài preordain
IV. SO SÁNH HAI NGÔN NGỮ VIỆT - ANH
Sự khác biệt giữa Tiếng Việt và Tiếng Anh là không
nhỏ. Đó là sự khác biệt giữa một ngôn ngữ phương
Đông và một ngôn ngữ phương Tây. Theo Đinh Điền
[7], do bị ảnh hưởng của văn hoá phương Đông – nền
văn hoá thiên về âm tính, nên trong ngôn ngữ, ngữ
pháp Tiếng Việt có tính linh động cao, chứ không chặt
chẽ (chia thì, thể, sự phù hợp về giống, số, cách ...)
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 47 -
như ngữ pháp phương Tây. Tiếng Anh không quá chặt
chẽ về ngữ pháp như Tiếng Nga, nhưng cũng yêu cầu
biến đổi nhiều về hình thái.
Theo Nguyễn Phương Thái và Shimazu [20], hai
khác biệt quan trọng nhất giữa Tiếng Việt và Tiếng
Anh mà hệ thống dịch máy cần giải quyết là: khác biệt
về hình thái và khác biệt về trật tự từ.
Khác biệt hình thái
Theo phân loại về ngôn ngữ của Stankevich được
nhắc đến trong [18], Tiếng Việt được xếp vào loại
ngôn ngữ phân tích (đơn) hay còn gọi là loại hình phi
hình thái với đặc điểm: Trong hoạt động ngôn ngữ, từ
không biến đổi hình thái, ý nghĩa ngữ pháp nằm ở
ngoài từ [7]. Tiếng Anh là ngôn ngữ thuộc loại hình
phân tích ở mức độ vừa phải, thiên về loại hình tổng
hợp nhiều hơn, biến đổi hình thái theo thì thể, giống,
số...
Những khác biệt về hình thái chủ yếu giữa Tiếng
Việt và Tiếng Anh thể hiện ở: số của danh từ, chia
động từ, quan hệ sở hữu, tính từ so sánh, tính từ làm vị
ngữ, danh từ chỉ loại... Ngoài ra, còn một số vấn đề
cần xử lý đặc biệt, ví dụ:
Đại từ xưng hô: Có thể nói việc xưng hô trong
Tiếng Việt thuộc loại phức tạp nhất thế giới, trong khi
số lượng đại từ xưng hô trong Tiếng Anh là khá nhỏ,
liên hệ chặt chẽ với cấu trúc ngữ pháp. Do vậy một đại
từ xưng hô Tiếng Anh có thể tương ứng với khá nhiều
đại từ xưng hô và các cụm từ có vai trò như đại từ
xưng hô trong Tiếng Việt. Ví dụ, đại từ “they” Tiếng
Anh có thể là bản dịch của “các anh ấy”, “các cô ấy”,
“chúng nó”, “bọn chúng”, “chúng”, “bọn nó”, “họ”.
Không phải tất cả các từ này đều xuất hiện trong từ
điển Tiếng Việt như những mục từ riêng biệt mà
chúng được coi là những cụm từ.
Động từ “đi”: Trong Tiếng Việt, động từ đi có thể
dùng với động từ khác như “đi học”, “đi chơi”, “đi
bơi”... Khi dịch sang Tiếng Anh, để bản dịch sát với
thực tế sử dụng, cần có một cách thức chuyển đổi
riêng cho trường hợp đặc biệt này.
Do đặc điểm từ vựng hóa hoàn toàn của văn phạm
liên kết, những dấu hiệu liên quan đến các hiện tượng
nói trên đều có thể nhận biết được qua các công thức
liên kết. Điều đó cho phép xây dựng các luật chuyển
đổi như trong mục V.
Khác biệt về trật tự từ
Theo [7], cả Tiếng Anh và Tiếng Việt đều cùng
loại hình S – V – O, cùng giống nhau về trật tự từ ở
phần định từ (determiner), mạo từ (article) và giới ngữ
(prepositional phrase) sau danh từ. Tuy nhiên, những
khác biệt nổi bật về trật tự từ giữa Tiếng Việt và Tiếng
Anh có thể liệt kê dưới đây.
Trật tự trong cụm danh từ-tính từ
Trong Tiếng Anh, tính từ luôn đứng trước danh từ
trong khi ở Tiếng Việt danh từ lại đứng trước tính từ.
Hình 2 dưới đây minh họa việc sắp xếp lại trật tự tự từ
trong trường hợp này:
Hình 2. Sắp xếp lại trật tự từ
Khi câu “tôi mua một chiếc ví đỏ” được áp dụng
luật dịch, kết quả trả ra là “I buy a red wallet”. Ở câu
đích, tính từ “red” đứng trước danh từ "wallet". Điều
này là kết quả của việc từ “ví” ở vị trí thứ 4 trong câu
nguồn đã được ánh xạ thành từ “wallet” ở vị trí thứ 5
trong câu đích, trong khi từ “đỏ” ở vị trí thứ 5 trong
câu nguồn thì được ánh xạ thành từ “red” ở vị trí thứ
4. Việc thay đổi trật tự cho cụm hai, ba tính từ đi sau
danh từ cũng tương tự như vậy. Chú ý rằng vị trí nói
đến ở đây là vị trí tương đối giữa các từ được nhắc đến
trong luật. Giữa chúng có thể tồn tại các từ khác. Xét
ví dụ "cô gái nhỏ rất xinh", hệ thống dịch cần thay đổi
vị trí các từ "cô gái", "nhỏ", "xinh", từ "rất" luôn phải
giữ vị trí đứng ngay trước từ "xinh". Bản dịch Tiếng
Anh của câu này cần phải là "very pretty little girl".
Văn phạm liên kết cho phép kết nối hai từ không liền
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 48 -
kề nên việc thể hiện những luật chuyển đổi trật tự từ
khá thuận tiện.
Trật tự câu nghi vấn, câu nghi vấn – phủ định
Dạng câu hỏi thường dùng nhất trong Tiếng Việt
liên quan đến từ (cụm từ) để hỏi, ví dụ “tại sao”, “ai”,
“như thế nào”. Các từ này thường ở đầu hoặc cuối
câu. Trong dạng câu hỏi “wh” Tiếng Anh, từ để hỏi
luôn luôn đứng trước. Do vậy cần biến đổi trật tự từ
cùng với một số biến đổi khác.
Ngoài ra cũng có một số trường hợp cần thay đổi
trật tự từ như trong câu chứa phụ từ chỉ tần suất, câu
dùng sở hữu cách...
Trật tự từ không lân cận: là sự phụ thuộc được xác
lập giữa các từ cách nhau một khoảng nhất định. Phụ
thuộc dạng này có thể do “khoảng trống” (gap) tạo nên
bởi sự thay đổi vị trí của từ nào đó, ví dụ “Quà cưới
cho cô dâu, tôi đã gửi rồi”, hay trong các câu ghép,
câu phức với nhiều mệnh đề như “Cái áo tôi mua hôm
qua rất đẹp”. Khi dịch sang Tiếng Anh, để đảm bảo
nghĩa của câu, thường phải thay đổi vị trí của từ,
nhưng sự thay đổi vị trí cho loại câu này khó có thể
biểu diễn một cách đơn giản bằng những luật dịch.
Việc phân tích cũng như dịch loại câu này đòi hỏi
những phương pháp thống kê, học máy với những bộ
ngữ liệu lớn mà chúng tôi chưa có điều kiện xây dựng.
Một số dạng câu có thể không biểu diễn được bằng
văn phạm liên kết như đã trình bày ở mục 2.
V. HỆ THỐNG DỊCH VIỆT ANH SỬ DỤNG ADJ
Như vậy, để xây dựng bộ dịch dựa trên dạng tuyển
có chú giải, ba vấn đề quan trọng nhất phải giải quyết
là
1. Tìm nghĩa từ
2. Chuyển đổi cấu trúc câu
3. Hoàn thiện bản dịch
Hình 3 dưới đây mô tả kiến trúc của hệ dịch Việt
Anh dựa trên dạng tuyển có chú giải.
Sơ đồ kiến trúc cho thấy hệ thống gồm 3 phần chính:
• Phần tiền xử lý thực hiện tách từ cho câu đưa vào.
Giai đoạn này không gán nhãn từ vì bộ phân tích cú
pháp sẽ gán nhãn từ theo liên kết tìm được. Để tách
từ, chúng tôi đã sử dụng bộ vnTokenizer của TS Lê
Hồng Phương [16].
• Phần phân tích thực hiện phân tích cú pháp bằng bộ
phân tích cú pháp liên kết. Đầu ra của quá trình phân
tích cú pháp là một phân tích liên kết với cấu trúc đã
trình bày ở mục trên. Trong khuôn khổ của bài báo,
chúng tôi chưa đề cập vấn đề dịch câu ghép và câu
phức nên kết quả nhận được từ bộ phân tích cú pháp
là một phân tích liên kết của câu đơn hoặc câu ghép
hai mệnh đề có thể phân tích dựa trên liên kết của từ
nối. Qua phân tích các liên kết tìm được, hệ thống sẽ
xác định các thuộc tính liên quan đến ngôi, số, thì,
thể, vv...
• Phần tổng hợp cho phép tạo ra bản dịch bao gồm các
công việc sau :
- Dịch một số cụm từ đặc biệt : "đi học", "bọn
chúng nó"...
- Tra nghĩa từ theo dạng tuyển trong từ điển ADJ.
- Thay đổi hình thái từ dựa trên các thuộc tính tìm
được (hiện thực hóa).
- Tìm phương án dịch tổng thể tốt nhất.
Hình 3. Kiến trúc của hệ thống dịch dựa trên dạng
tuyển có chú giải
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT Tập V-1, Số 8 (28), tháng 12/2012
- 49 -
VI. XÂY DỰNG BỘ LUẬT DỊCH
Như đã mô tả ở trên, hệ thống dịch cần sử dụng ba
tập luật liên quan đến các công việc khác nhau: phát
hiện thuộc tính, dịch cụm từ, chuyển đổi cấu trúc.
Trong phần này chúng tôi mô tả chi tiết các luật điển
hình và văn phạm phi ngữ cảnh sinh ra bộ luật.
Trong các luật điển hình dưới đây của hệ thống, ký
hiệu W1, W2, W3 đại diện cho các từ, D1, D2, D3 chỉ
dãy các tên kết nối thuộc danh sách trái hay phải của
một dạng tuyển nào đó.
Luật phát hiện thuộc tính
Thuộc tính ở đây là những thông tin cần được lưu
trữ lại cho mỗi từ để biến đổi hình thái thích hợp, ví dụ
số nhiều của danh từ, thì, thể của động từ, ngôi của đại
từ, loại cấu trúc so sánh (so sánh ngang bằng, so sánh
hơn kém, so sánh bậc nhất). Dưới đây là một số ví dụ
về luật phát hiện thuộc tính:
Luật phát hiện thuộc tính về số nhiều của danh từ:
Căn cứ vào kết nối DpNt của những định từ chỉ số
nhiều “những”, “các”,”số đông” với danh từ, có thể
đưa giá trị PLURAL vào thuộc tính của danh từ liên
kết với chúng:
W1(D1)(DpNt) W2(DpNt)(D2)
→ W1’W2’(number = PLURAL)
Luật phát hiện thuộc tính thì của động từ: Thì của
động từ được thể hiện bằng các liên kết với các phụ từ
chỉ thì. Thì quá khứ được thể hiện qua các liên kết
RpVt, RpVs, thì tương lai RfVt, RfVs, tiếp diễn RcVt,
RcVc, hoàn thành RhVt, RhVc. Các liên kết của thời
quá khứ hay tương lai xuất hiện trong phân tích sẽ
được xử lý theo các luật nhằm xác định thuộc tính
tense cho động từ. Với những thì phức tạp hơn như
các thì tiếp diễn hay hoàn thành, không chỉ biến đổi
hình thái động từ mà còn thêm từ khác như "to be", "to
have", do vậy thuộc tính được xác định giá trị là thuộc
tính form. Ví dụ,
W1(D1)(RpVt) W2(RpVt)(D2)→
W1’W2’(tense = PAST)
W1(D1)(RfVt) *(RfVt)(D2) →
W1’W2’(tense = FUTURE)
Luật xác định ngôi của đại từ xưng hô: đối với đại
từ xưng hô thì không cần căn cứ vào liên kết vì trong
Tiếng Việt số lượng đại từ xưng hô là khá nhỏ, do vậy
luật căn cứ vào chính giá trị từ và loại của từ để xác
định ngôi:
tôi[p]→ I(person = FIRST)
nó[p] → he (person = THIRD)
Ký hiệu [p] trong luật thể hiện loại của từ đứng ngay
bên trái. Thông tin này có trong từ điển liên kết.
Sau khi xác định được ngôi của đại từ xưng hô, thuộc
tính về ngôi phải được lan truyền cho động từ để chia
đúng ngôi, đặc biệt là động từ “là” vì động từ “to be”
tương ứng chia khác nhau ở tất cả các ngôi thể hiện
qua các luật sau:
W1(D1)(SV) W2(SV)(D2)
→ W1’W2’(person = W1’.person)
Động từ “là”
W1(D1)(DT_LA) W2(DT_LA)(D2)
→ W1’W2’(person = W1’.person)
Luật dịch cụm từ
Dịch cụm từ sang đại từ xưng File đính kèm:
ung_dung_van_pham_lien_ket_trong_dich_may_viet_anh.pdf



