Ứng dụng mạng xã hội vào giảng dạy Tiếng Pháp cho sinh viên Việt Nam

Đầu những năm 2000, web 2.0 ra đời, đưa người sử dụng trở thành chủ nhân thực sự của

Internet. Đặc điểm nổi bật của thế hệ web này là người dùng có thể tham gia vào quá trình sáng

tạo nội dung trên Internet, đồng thời, tương tác với nhau. Đây chính là khía cạnh xã hội của

web 2.0, tức mạng xã hội (social web).

Tiến bộ về công nghệ này đã góp phần thay đổi nhiều mặt trong đời sống, đem lại

chuyển biến cho phương thức giảng dạy ngôn ngữ. Dạy-học tiếng Pháp cũng không nằm ngoài

xu thế đó. Nhiều dự án đã được tiến hành ở phương Tây, chẳng hạn: năm 2003, Hannah & de

Nooy yêu cầu sinh viên lên diễn đàn của báo Le Monde để bàn luận chính trị; năm 2006,

Ollivier cho sinh viên viết bài trên Wikipedia.

Học theo những dự án thành công đó, năm 2014, “Tự học tiếng Pháp với Internet” đã

được triển khai trên đối tượng là sinh viên năm thứ hai Khoa Tiếng Pháp – Trường Đại học

Ngoại ngữ – Đại học Huế.

Bên cạnh một số hạn chế (tỉ lệ tham gia thấp), với bốn nhiệm vụ (task) ứng dụng mạng

xã hội, dự án này được các sinh viên tham gia đánh giá cao vì tính mới lạ của nó, đồng thời, mở

ra hướng xây dựng hệ thống tự học tiếng Pháp khai thác tiềm năng của mạng xã hội dành cho

sinh viên Việt Nam.

pdf12 trang | Chia sẻ: phuthai499 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng mạng xã hội vào giảng dạy Tiếng Pháp cho sinh viên Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ; số
lượng sinh viên hoàn tất nhiệm vụ và đăng tải sản phẩm lên các trang mạng xã hội thấp hơn so
với số tham gia bình luận trong nhóm FB nội bộ (NV 1 và 2).
Bên cạnh 3 sinh viên đặc biệt tích cực (chiếm 20%), có 4 thành viên hầu như không
phản ứng gì (chiếm 26,67%); 8 sinh viên còn lại được phân thành hai nhóm: tham gia khá đầy
đủ (3 sinh viên, chiếm 20%) và tham gia ở mức trung bình (5 sinh viên, chiếm 33,33%) (biểu
đồ 1).
20
20
33.33
26.67
Tham gia tích cực
Tham gia khá đầy đủ
Tham gia ở mức trung bình
Không phản ứng
Biểu đồ 1: Mức độ tham gia vào dự án của nhóm sinh viên
Từ 17/06 đến 13/09/2014, 6 cuộc phỏng vấn riêng lẻ đã được tiến hành với 2 sinh viên
tích cực (KL1, MH1); 2 tham gia khá đầy đủ (DH1, TG1); 1 ở mức trung bình (HT1) và 1 hầu
như không phản ứng (NT1). Các buổi nói chuyện này là cơ sở để rút ra những điểm cần lưu ý
khi khai thác mạng xã hội vào giảng dạy tiếng Pháp dành cho sinh viên Việt Nam.
III. Một số lưu ý khi khai thác mạng xã hội vào giảng dạy tiếng Pháp cho sinh viên Việt
Nam
1 Xây dựng quan niệm cởi mở về lỗi cho sinh viên
So sánh phát biểu của các sinh viên, có thể thấy: những sinh viên tham gia khá đầy đủ và
tích cực xem lỗi, sai là điều tất yếu trong quá trình học, coi việc đăng tải sản phẩm lên mạng xã
hội như cơ hội để sửa chữa cho những lần sau (DH1, MH1); trong khi đó, HT1 – sinh viên
tham gia rất ít vào dự án cảm thấy khá nặng nề nếu làm sai, mắc lỗi chính tả, ngữ pháp (bảng
2).
Thời gian Người nói Nội dung
07 : 32 DH1
Dù nói sai họ cũng không biết người nớ là ai hết, bởi rứa nếu họ nói
sai thì mình sửa, rồi họ nói sai thì mình biết là mình sai chỗ nớ, còn
nói chung lại em cũng không quan trọng, vì họ không biết là mình
gửi nên em cũng không sợ họ đánh giá chi mình, mình biết là mình
sai thì lần sau rút kinh nghiệm ở chỗ khác.
10 : 24 DH1
Thì nếu mấy bạn đánh giá mình thì mình trả lời sai thì mấy bạn đánh
giá, mà đúng thì mà năng lực của mình ngang chừng nớ thì mình
cũng chấp nhận thôi cô nờ đều mình cố gắng lần sau không bị như
rứa thôi. Chơ còn dạng giống như khi mô cũng có thấp thì mới tới
cao đồ rứa chơ chơ khi mô cũng cao thì làm răng đi học. (cười)
03 : 06 MH1
Dạ không [ngại khi pốt bài lên cho tất cả mọi người trên mạng đọc] ,
vì cái nớ thì khi mà họ phát hiện lỗi cho mình thì mình sẽ sửa được,
mình sẽ nhớ được lỗi của mình và mình sẽ khắc phục được.
09 : 33 HT1
Dạ, giống như mình giống như mình nói tiếng Việt là dễ cô nờ,
nhưng mà đến lúc nói quá tiếng Pháp là mình chưa giống như
mình viết mình sợ sai cô nờ, nhất là văn hóa ẩm thực đồ rứa.
09 : 45 HTA
Viết sợ sai. Nhưng mà cô có nói mấy bạn cần chi thì có thể còm-men
thì mọi người sẽ góp ý cho mấy bạn, (nghỉ) thì em thấy răng ?
09 : 56 HT1 Dạ, (do dự) rứa đó cũng là một cách tốt. (từng chữ một)
10 : 02 HTA
Nhưng mà vì răng em lại không tận dụng cơ hội nớ để ví dụ mình
không biết nha, thì mình có thể còm-men vô đó để mọi người sẽ
nói chung góp ý cho, giúp đỡ em.
10 : 21 HT1 Dạ, (do dự) em sợ sai nhiều cô nờ.
10 : 25 HTA Sợ sai nhiều nữa à ?
10 : 27 HT1 Dạ.
10 : 28 HTA
Thế thì khi mà, tức nhiên là khi mà hoạt động Routard hoặc hoạt
động mấy cái ẩm thực văn hóa giới thiệu như vậy, em sợ viết sai để
cho người khác đọc hay là răng ?
10 : 41 HT1
Dạ, sợ viết, giống như khi mình bỏ lên nớ là sợ giống như lỗi chính
tả sai nhiều a cô nờ.
10 : 49 HTA Ừ.
10 : 50 HT1 Lỗi ngữ pháp đồ rứa. (nói nhỏ)
Bảng 2: Quan niệm về lỗi, sai của sinh viên (trích phỏng vấn)
Như vây, để sinh viên mạnh dạn tạo ra các sản phẩm bằng tiếng nước ngoài nói chung và
tích cực tham gia vào các dự án mạng xã hội nói riêng, nên chăng giáo viên cần có biện pháp
giúp người học vượt qua nỗi “sợ sai”, “sợ lỗi” bởi một khi đã bị tâm lý này đè nặng, sinh viên
sẽ không dám “mạo hiểm” vượt qua vùng an toàn, thử nghiệm những điều mới mẻ.
2. Tôn trọng thể diện của sinh viên
Có lẽ tâm lý “sợ lỗi”, “sợ sai” của sinh viên xuất phát từ văn hóa trọng thể diện của
người Việt. Do phải giữ bộ mặt, sinh viên thường cảm thấy khó khăn khi để lộ khuyết điểm của
bản thân với người khác: HT1 đã nhấn mạnh điều này trong phỏng vấn. Theo sinh viên này,
người dạy cần tránh yêu cầu người học đăng bài công khai nếu trình độ của sinh viên không
được tốt lắm. Về phần TG1, mặc dù có cởi mở hơn, sinh viên này cũng có chung quan điểm với
HT1 (bảng 3).
Thời gian Người nói Nội dung
11 : 16 HT1
Dạ, vì em nghĩ có mấy bạn trong lớp, mấy bạn khá, mấy bạn tốt toàn
ghi bài tốt mà chừ bài mình dở, với lại lỗi sai mình bỏ lên, với lại
(ngừng đột ngột, nói từng từ một).
11 : 31 HTA
Thế thì có em nghĩ ngoài cái cách còm-men công khai đó, đúng chưa
ạ, để cho tất cả mọi người trong nhóm cùng thấy thì có cách nào để
em cảm thấy không bị, khi mình bỏ lên nớ mình thấy sợ không ?
11 : 45 HT1 Dạ, gửi mail cho cô.
11 : 46 HTA Gửi mail cho cô.
11 : 47 HT1 Hoặc là inbox nơi chỗ face.
11 : 50 HTA Thì em thích rứa hơn hay là ?
11 : 51 HT1 Dạ. Bí mật hơn.
11 : 54 HTA Bí mật hơn.
11 : 55 HT1 Khi mà qua cô sửa rồi mình mới bỏ lên thì đỡ hơn.
12 : 03 HTA
(nghỉ) Chơ còm-men trực tiếp lên trên đó cho mọi người là em
ngại.
12 : 09 HT1 Khi mà mình tự tin về trình độ mình thì mình bỏ lên mới được.
08 : 02 TG1
Dạ  cũng có. Tại vì nhóm mình, mấy bạn, đa số những bạn pốt bài 
lên a, là những bạn siêng, với lại là mấy bạn ấy giỏi. Bài của mấy 
bạn viết rất là chuẩn, bài của em gửi lên thì hắn không được tốt lắm, 
thành ra em cũng hơi ngại (nghỉ ngắn) với những bạn làm bài tốt đó 
vì mình cùng học ở lớp thì nhiều khi còn (mỉm cười)
08 : 22 HTA (mỉm cười)
08 : 23 TG1 Mình học cùng một lớp, gặp nhau nên nhiều khi còn ngại. (nghỉ)
08 : 26 HTA Ừ.
08 : 28 TG1
Nhưng mà em nghĩ, điều đó không quan trọng, quan trọng là mình 
cố gắng
Bảng 3: Quan niệm của sinh viên về việc công khai sản phẩm thô (trích phỏng vấn)
Ngoài ra, cũng do giữ thể diện, khi không hiểu, sinh viên thường cũng không nói ra. Do
đó, HT1 đề xuất giáo viên nên có câu hỏi điều tra vô danh kiểm tra mức độ hiểu đề của người
học (bảng 4).
Thời gian Người nói Nội dung
29 : 44 HT1
Dạ. Nếu mà có, vì có một số bạn không hiểu họ không nói ra mình 
không biết được hết.
29 : 55 HTA
Thế thì theo em làm cách mô để cho mọi người mọi người không 
hiểu mà có thể vẫn nói ra.
30 : 03 HT1
Dạ, em nghĩ cô nên ghi ra một câu hỏi dạng giống như nghiên cứu 
của cô rứa, dễ hiểu hoặc chưa hiểu hoặc khó hiểu sau đó để mấy bạn 
đánh vô rồi tính phần trăm mình biết được có người hiểu, người 
không hiểu. Dễ nói hơn so với việc còm-măng.
30 : 27 HTA
Là tức không biết cô hiểu có đúng không ? Như ri hi, khi cô ra 
một hoạt động chi đó, thì cô sẽ làm một dạng câu hỏi để cho mấy 
bạn tích vô, và câu hỏi đó là vô danh, đúng không ?
30 : 48 HT1 Dạ.
30 : 49 HTA
Là không biết ai nói hết, là hỏi là mấy bạn đã hiểu đề chưa, mấy bạn 
tích vô.
30 : 54 HT1 Dạ, có hiểu cách sử dụng không cô nờ.
30 : 56 HTA Ừ, chơ còn còm-men trực tiếp
31 : 00 HT1 Dạ.
31 : 01 HTA Rứa là mọi người không làm hả ?
31 : 02 HT1 Dạ, không thích.
31 : 03 HTA
Không thích. Ừ, rồi. Mà đi làm làm những hoạt động không phải 
cho giáo viên mà cho người khác đọc mà mấy bạn cũng không thích 
hay răng ?
31 : 20 HT1
Dạ, không phải vì nói ra cái mình không hiểu mình là thấy sợ họ, 
ngại, có nhiều người họ ngại, chơ không phải lợi ích cho ai. Thì theo 
cô thấy lên mạng, a, theo trên lớp có nhiều người họ vẫn không hiểu 
nhưng họ không dám nói vói giáo viên. (nghỉ)
Bảng 4: Cách thức kiểm tra mức độ hiểu đề của người học (trích phỏng vấn)
Tóm lại, để có thể khai thác thành công mạng xã hội trong các lớp học tiếng Pháp của
sinh viên Việt Nam, giáo viên nên tìm cách phá tan tâm lý sợ lỗi nơi người học, đồng thời triển
khai những biện pháp kỹ thuật để đảm bảo thể diện cho sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Atabekian, C. (2010). Au travail, Narcisse ! Cahiers Pédagogiques, (482), 11–13.
[2] Boyd, D. M., & Ellison, N. B. (2007). Social Network Sites: Definition, History, and
Scholarship. Journal of Computer-Mediated Communication, 13(1), 210–230.
[]
[3] Conseil de l’Europe, & Division des politiques linguistiques. (2005). Un cadre européen
commun de référence pour les langues : apprendre, enseigner, évaluer. Strasbourg, Paris:
Conseil de l’Europe, Division des politiques linguistiques.
[]
[4] Dejean-Thircuir, C., & Mangenot, F. (2013). Apports et limites des tâches web 2.0 dans un
projet de télécollaboration asymétrique. In Actes du colloque Epal 2013. Grenoble: Université
Stendhal-Grenoble 3.
[5] Hanna, B. E., & de Nooy, J. (2003). A funny thing happened on the way to the forum:
Electronic discussion and foreign language learning. Language Learning & Technology, 7(1),
71–85.
[6] Ollivier, C. (2007). Ressources Internet, wiki et autonomie de l’apprenant. Presented at the
Actes du colloque Echanger pour apprendre en ligne (EPAL). Grenoble, 7-9 juin 2007,
Grenoble: Lamy Marie-Noëlle, Mangenot François, Nissen Elke. [
grenoble3.fr/actes/pdf/olivier-wiki.pdf]
[7] Ollivier, C. (2012). Approche interactionnelle et didactique invisible – Deux concepts pour
la conception et la mise en œuvre de tâches sur le web social. Alsic. Apprentissage des Langues
et Systèmes d’Information et de Communication, (Vol. 15, n°1).
[]
[8] Ollivier, C., & Puren, L. (2011). Le Web 2.0 en classe de langue: une réflexion théorique et
des activités pratiques pour faire le point. Paris: Éditions La Maison des langues.
[9] Zourou, K. (2012). De l’attrait des médias sociaux pour l’apprentissage des langues –
Regard sur l’état de l’art. Alsic. Apprentissage des Langues et Systèmes d’Information et de
Communication, (Vol. 15, n°1). []
Giới thiệu về tác giả
Họ và tên: Hồ Thủy An
Chức vụ: Giảng viên tiếng Pháp
Học vị: Thạc sĩ
Nơi công tác: Khoa Tiếng Pháp – Trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Huế
Địa chỉ liên hệ: 57 Nguyễn Khoa Chiêm – Thành phố Huế
Email: ho.thuyan@gmail.com
Chuyên ngành nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy tiếng Pháp (mảng ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học); biên-phiên dịch Việt-Pháp

File đính kèm:

  • pdfbaocaotoanvan_hothuyan_1828_2118796.pdf
Tài liệu liên quan