Tương tác trong giờ học Tiếng Anh không chuyên tại trường đại học Sài Gòn
Yêu cầu đổi mới toàn diện việc dạy và học
ngoại ngữ ở các cấp học, đặc biệt ở bậc Đại
học nhằm tiến tới mục tiêu sinh viên tốt nghiệp
có khả năng sử dụng ngoại ngữ độc lập, tự tin
trong giao tiếp, làm việc trong môi trường hội
nhập, đa văn hóa đang ngày càng trở nên cấp
bách, nhận được nhiều sự quan tâm của xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên, ngành giáo dục cần
phải có sự thay đổi, đó là sự dịch chuyển từ
phương pháp dạy học lấy người dạy làm trung
tâm sang phương pháp dạy học lấy người học
làm trung tâm. Trong số nhiều phương pháp
dạy học tích cực ra đời nhằm khai thác tính
chủ động, và tiềm năng của người học, phải kể
đến phương pháp dạy học tương tác – một
phương pháp dựa vào tác động qua lại của các
yếu tố tham gia vào quá trình dạy học để tạo
nên tính tương tác đa chiều giữa chủ thể và
khách thể của hoạt động dạy học
TNU Journal of Science and Technology 225(10): 31 - 38 Email: jst@tnu.edu.vn 31 TƢƠNG TÁC TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH KHÔNG CHUYÊN TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN Nguyễn Thị Huệ1, Hà Thúy Ngọc1, Nguyễn Xuân Tiến2* 1Đại học Sài Gòn, 2Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện tại trường Đại học Sài Gòn nhằm tìm hiểu thực trạng hoạt động tương tác bằng tiếng Anh giữa giảng viên và sinh viên, giữa sinh viên và sinh viên trong các giờ học tiếng Anh không chuyên, tìm hiểu những lợi ích về học tập sinh viên có thể nhận được từ các hoạt động tương tác và những yếu tố ảnh hưởng đến tương tác trong giờ học tiếng Anh. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên dữ liệu khảo sát 493 sinh viên và 14 giảng viên, kết hợp quan sát hoạt động tương tác trong các giờ học tiếng Anh không chuyên (tiếng Anh I, II, III) trong năm học 2019-2020. Kết quả khảo sát cho thấy việc dạy học môn tiếng Anh tại trường Đại học Sài Gòn áp dụng theo hướng dạy học tích cực, nhận thức khác nhau của sinh viên về lợi ích tương tác bằng tiếng Anh với giảng viên, với bạn học trong giờ học tiếng Anh, và những yếu tố khuyến khích hay hạn chế sự tham gia tương tác của sinh viên. Trên cơ sở kết quả có được, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị liên quan đến việc dạy học tiếng Anh không chuyên hiện nay tại cơ sở đào tạo. Từ khóa: Tương tác; dạy học tương tác; năng lực giao tiếp; câu hỏi; đàm phán. Ngày nhận bài: 09/7/2020; Ngày hoàn thiện: 05/8/2020; Ngày đăng: 04/9/2020 INTERACTION IN EFL CLASSROOM AT SAIGON UNIVERSITY Nguyen Thi Hue 1 , Ha Thuy Ngoc 1 , Nguyen Xuan Tien 2* 1Saigon University, 2Thai Nguyen University ABSTRACT The study was conducted at Saigon University to find out the current situation of interaction in English between lecturers and students, between students and students in non-professional English classes, to learn the benefits in terms of learning that students can gain from interactive activities and the factors that influence interaction during English lessons. The study was conducted based on survey data of 493 students and 14 lecturers, combining observation of interactive activities in non- professional English classes (English I, II, III) in the academic year 2019-2020. The survey results show positive English teaching at Saigon University, different perceptions of students about the benefits of interacting in English with lecturers and their peers and factors that encourage or limit student interaction. Based on the results obtained, the research team makes some recommendations regarding the current teaching of non-professional English at the training institution. Keywords: Interaction; interactive teaching; communicative competence; question; negotiation. Received: 09/7/2020; Revised: 05/8/2020; Published: 04/9/2020 * Corresponding author. Email: tiennx@tnu.edu.vn Nguyễn Thị Huệ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 31 - 38 Email: jst@tnu.edu.vn 32 1. Đặt vấn Yêu cầu đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ ở các cấp học, đặc biệt ở bậc Đại học nhằm tiến tới mục tiêu sinh viên tốt nghiệp có khả năng sử dụng ngoại ngữ độc lập, tự tin trong giao tiếp, làm việc trong môi trường hội nhập, đa văn hóa đang ngày càng trở nên cấp bách, nhận được nhiều sự quan tâm của xã hội. Để đạt được mục tiêu trên, ngành giáo dục cần phải có sự thay đổi, đó là sự dịch chuyển từ phương pháp dạy học lấy người dạy làm trung tâm sang phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Trong số nhiều phương pháp dạy học tích cực ra đời nhằm khai thác tính chủ động, và tiềm năng của người học, phải kể đến phương pháp dạy học tương tác – một phương pháp dựa vào tác động qua lại của các yếu tố tham gia vào quá trình dạy học để tạo nên tính tương tác đa chiều giữa chủ thể và khách thể của hoạt động dạy học. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng tương tác trong lớp học tiếng Anh không chuyên tại trường Đại học Sài Gòn, vai trò của tương tác trong việc phát triển năng lực tiếng Anh của sinh viên và các yếu tố tác động tương tác giữa giảng viên- sinh viên, tương tác giữa sinh viên-sinh viên trong các giờ học tiếng Anh và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn học này. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động tương tác bằng lời nói giữa giảng viên - sinh viên, giữa sinh viên - sinh viên trong giờ học tiếng Anh không chuyên tại trường Đại học Sài Gòn. Khách thể tham gia nghiên cứu khảo sát gồm 14 giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy tiếng Anh bậc đại học (trung bình là 14,4 năm) và 493 sinh viên không chuyên có trình độ tiếng Anh từ sơ cấp đến trung cấp. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Nhóm tập trung tìm hiểu các nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài, phạm vi trong nước và ngoài nước, tìm hiểu các khái niệm về năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ, tương tác và tương tác trong lớp học, các yếu tố tác động tương tác trong lớp học qua đó tổng hợp các lý thuyết về dạy học ngoại ngữ theo hướng giao tiếp, dạy học tương tác. 4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 4.2.1. Phương pháp điều tra Khảo sát thực tế hai bảng câu hỏi dành cho sinh viên, giảng viên gồm các câu hỏi đóng lựa chọn cho phép người trả lời chọn một phương án cho sẵn và câu hỏi đóng tùy chọn cho phép chọn nhiều phương án cho sẵn. Bảng khảo sát được gửi cho sinh viên, giảng viên thông qua đường dẫn trên Internet để thu thập dữ liệu. Bảng hỏi khảo sát sinh viên tập trung tìm hiểu nhận thức, thái độ của sinh viên về tương tác, vai trò của tương tác đối với sự phát triển kiến thức từ vựng, ngữ pháp, phát âm, kỹ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Anh, và các yếu tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến sự tích cực tương tác của sinh viên trong giờ học tiếng Anh. Bảng câu hỏi khảo sát giảng viên tập trung tìm hiểu mức độ giảng viên sử dụng tiếng Anh trong lớp, tổ chức, điều khiển và quản lý các hoạt động tương tác trong giờ dạy. 4.2.2. Phương pháp quan sát Dự giờ các tiết học tiếng Anh không chuyên - tiếng Anh I, tiếng Anh II, tiếng Anh III trong học kỳ 1 năm học 2019-2020. Quan sát kiểu tương tác, kiểu câu hỏi, các hoạt động nhóm, mức độ sử dụng tiếng Anh trong tương tác của giảng viên và sinh viên. 5. Tổng quan nghiên cứu 5.1. Dạy học ngoại ngữ theo hướng tiếp cận giao tiếp 5.1.1. Năng lực giao tiếp Hymes [1] nhắc đến khái niệm năng lực giao tiếp là khả năng chuyển tải, hiểu được những thông điệp giữa các cá nhân trong những tình huống nhất định. Savignon [2] mô tả năng lực giao tiếp là khả năng của người học ngôn ngữ tương tác lời nói với người khác để diễn đạt suy nghĩ và năng lực này hoàn toàn khác với năng lực thực hiện các bài kiểm tra về kiến thức ngữ pháp. Theo Cane và Swain (1980), năng lực giao tiếp gồm năng lực ngôn ngữ, năng lực ngôn ngữ xã hội, năng lực phát ngôn, năng lực chiến lược [3]. Nguyễn Thị Huệ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 31 - 38 Email: jst@tnu.edu.vn 33 5.1.2. Dạy học ngoại ngữ theo hướng tiếp cận giao tiếp Brown, H. D. [1] đề cập đến 4 đặc điểm của dạy học hướng giao tiếp là người học đạt được khả năng thành thạo về ngôn ngữ, các hoạt động ngôn ngữ được thiết kế khuyến khích người học tham gia sử dụng ngôn ngữ giao tiếp một cách chính xác, phù hợp với hoàn cảnh, tập trung phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ lưu loát, người học tiếp nhận ngôn ngữ và sử dụng được ngôn ngữ trong những tình huống không chuẩn bị trước. Allwright [4] cho rằng không thể hy vọng người học có thể sử dụng những gì học trong lớp ra bên ngoài lớp học nếu họ chưa bao giờ có nhiều cơ hội thực hành những tình huống tương tự như 'cuộc sống thực'. Do vậy, việc cho phép người học tham gia các hoạt động thực hành được thiết kế mô phỏng giao tiếp có thật (ví dụ: từ chối lời mời đến bữa tối) là cách để thu hẹp khoảng cách giữa bài tập trong lớp học và giao tiếp thực sự. Richards & Rodgers [5], Meng và Wang [6] cho rằng ngoại ngữ vừa phải là nội dung giảng dạy vừa phải là phương tiện dùng để giảng dạy thông qua các hoạt động tương tác trực tiếp trong lớp học và các hoạt động ngôn ngữ trong lớp học phải được thiết kế hướng đến giao tiếp thật sự và có ý nghĩa. 5.1.3. Thuyết ngữ nhập (Input Hypothesis) Stephen Krashen [5] và Jack C. Richards & Willy A. Renandya (2001) [6] cho rằng ngữ nhập (input) có vai trò quan trọng đối với quá trình người học thụ đắc ngôn ngữ. Theo đó, nếu xem khả năng ngôn ngữ hiện tại của người học là (i), thì độ khó và phức tạp của ngữ nhập chỉ nên ở mức (i+1), nghĩa là không thể quá khó so với với trình độ của người học và người học vẫn hoàn toàn có thể hiểu được nhờ vào nền tảng về ngôn ngữ và sự hỗ trợ từ kiến thức khác như hiện tượng cận ngôn, sự hiểu biết về hoàn cảnh, hiểu biết về thế giới. Krashen [5] cho rằng ngữ nhập càng nhiều thụ đắc ngôn ngữ càng nhiều và ngược lại ngữ nhập hạn chế việc thụ đắc ngôn ngữ diễn ra càng giảm. 5.1.4. Thuyết tương tác (Interaction Hypothesis) Lý thuyết tương tác (Interaction Hypothesis) của Michael Long (1985,1996) đề cập đến những kỹ thuật điều chỉnh trong tương tác giúp cho các bên giao tiếp khắc phục được những khó khăn để duy trì tương tác dẫn đến kết quả là ngữ nhập trở nên dễ hiểu [1]. Meng and Wang [6] nhấn mạnh tương tác giúp người học tiếp cận ngữ nhập nhiều hơn bằng cách nghe nhiều, từ đó gia tăng vốn ngôn ngữ của người học. Cũng bằng cách tương tác, người học sử dụng ngôn ngữ nhiều hơn, dám thử những từ ngữ mới, cấu trúc mới để giao tiếp được với bạn tương tác. Như vậy, ngoài ngữ nhập là điều kiện cần cho việc thụ đắc ngôn ngữ, tương tác tạo thuận lợi cho người học tiếp thu ngôn ngữ mới một cách tự nhiên. 5.2. Dạy học tương tác (interactive teaching) Hoàng Thanh Hương [7] cho rằng “Tính ưu việt của phương pháp dạy học tương tác trong giảng dạy ngoại ngữ nằm ở chỗ: nó đã làm tăng tính tự chủ và độc lập của người học trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ và phát triển môi trường học ngoại ngữ một cách tự giác. Đồng thời phương pháp này cũng tạo cơ hội cho người học có thể tiếp thu và thực hành ngôn ngữ một cách trực tiếp.” 5.2.1. Tương tác trong lớp học Tương tác là hoạt động tương hỗ đòi hỏi ít nhất hai đối tượng tham gia tương tác với nhau và có hai hoạt động cùng diễn ra một cách tự nhiên [8]. Tương tác không diễn ra một phía mà phải có sự tác động qua lại giữa hai đối tượng trao đổi thông tin để đạt được mục đích giao tiếp. Theo Wagner [9] tương tác chủ yếu trong lớp học ngoại ngữ là tương tác lời nói và đối tượng tham gia tương tác là giáo viên và người học. Tương tác giữa giáo viên và người học có thể diễn ra theo nhiều cách như tương tác giữa giáo viên với cả lớp, giữa giáo viên với từng cá nhân người học, hoặc giữa giáo viên với một nhóm người học. Giáo viên vừa là người tổ chức hoạt động, người điều khiển hoạt động, người đánh giá hoạt động, người tham gia tương tác vừa là người cung cấp tài nguyên ngôn ngữ cho người học [6]. Hall [10] đề cập đến kiểu tương tác IRE (Initialing-Response-Evaluation) giữa giáo viên và người học, theo đó giáo viên khởi đầu tương tác bằng cách đặt câu hỏi cho người học (Initiating), tiếp đó người học trả lời câu hỏi của giáo viên (Response) và sau cùng là Nguyễn Thị Huệ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 31 - 38 Email: jst@tnu.edu.vn 34 giáo viên đánh giá phần trả lời của người học đúng hay sai (Evaluation). Kiểu tương tác IRE diễn ra rất thường xuyên ở nhiều cấp lớp học từ tiểu học cho đế cấp đại học, đặc biệt ở các lớp có người học trình độ thấp. Tuy nhiên, tương tác IRE không khuyến khích người học sử dụng ngôn ngữ nhiều [10]. Người học tương tác theo kiểu IRE ít có khả năng nhớ và hiểu nội dung bài so với những người học tham gia vào các kiểu tương tác phức tạp hơn. Lin [10] nghiên cứu về tương tác tại các lớp học tiếng Anh ở Hong Kong nhận thấy ngoài việc hạn chế cơ hội thực hành, tương tác IRE không tạo được sự thích thú của sinh viên đối với việc học tiếng Anh. Tương tác IRE có thể điều chỉnh thành kiểu tương tác IRF (Initializing-Response-Follow up). Giai đoạn thứ ba trong tương tác IRE được thay bằng những câu hỏi tiếp theo (follow-up question) để khuyến người học tương tác lâu hơn và gia tăng cơ hội sử dụng ngôn ngữ. Sullivan [10] nghiên cứu về việc học tiếng Anh tại Việt Nam cho biết trong các lớp học tiếng Anh giáo viên thường xuyên sử dụng những câu hỏi tiếp nối câu trả lời của người học và điều này khuyến khích người học sử dụng tiếng Anh nhiều hơn. Kỹ năng đặt câu hỏi của giáo viên giữ vai trò quan trọng trong tương tác, vừa mang lại không khí học tập vui vẻ vừa khuyến khích người học tham gia. Hai loại câu hỏi thường xuyên được giáo viên sử dụng trong lớp học là câu hỏi hiển thị (display question) và câu hỏi tham khảo (referential question). Theo Nematullah Shomoossi [11] câu hỏi hiển thị là dạng câu hỏi mà giáo viên biết trước câu trả lời và được giáo viên sử dụng để kiểm tra kiến thức, mức độ hiểu bài của người học. Tuy nhiên câu hỏi hiển thị không khuyến khích người học giao tiếp nhiều. Ngược lại, câu hỏi tham khảo là loại câu hỏi mà giáo viên không biết trước câu trả lời sẽ là gì, người trả lời lựa chọn, quyết định thông tin cần chia sẻ, giải thích. Các câu hỏi tham khảo sẽ không chỉ khơi dậy sự thích thú được chia sẻ mà còn giúp phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ của người học. Theo Long [12] tương tác người học – người học mang lại nhiều lợi ích học tập, đặc biệt ở những lớp có sĩ số đông. Lê Phạm Hoài Hương [13] đã nêu “Khi học viên tương tác với nhau, họ có thể phát triển kỹ năng, chiến lược học tập và giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu. Trong các hoạt động giải quyết vấn đề, những học viên ít khả năng hơn làm việc với những người có khả năng hơn, sự dìu dắt, chỉ dẫn thông qua việc sử dụng ngôn ngữ sẽ giúp người ít có khả năng hơn sử dụng được tiềm năng của mình”. Tương tác người học - người học diễn ra theo nhiều cách khác nhau như tương tác đôi hoặc tương tác nhóm lớn hơn. 5.2.2. Vai trò của tương tác đối với việc phát triển năng lực giao tiếp của người học và các yếu tố ảnh hưởng đến tương tác trong lớp học Mark Payne [14] khẳng định tương tác của người học có vai trò rất quan trọng. Nếu muốn người học thụ đắc một ngôn ngữ mới họ cần được tiếp cận thường xuyên ngôn ngữ nhập phù hợp với năng lực ngôn ngữ của họ bằng cách nghe, đọc và đồng thời cần có nhiều cơ hội sử dụng ngôn ngữ đó trong lớp học, tương tác với giáo viên và những người khác. Yu [15] khẳng định đàm phán giữ vai trò quan trọng trong tương tác ở lớp học. Đàm phán được hiểu là các bên tham gia tương tác dùng ngôn ngữ để trao đổi, thương lượng, giải thích nhằm mục đích hiểu được người kia nói. Khi người học đàm phán nhiều thì càng có cơ hội sử dụng ngôn ngữ. Tương tác trong lớp học ngoại ngữ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Smith và Berdine [16] đề cập tới 3 nhóm yếu tố tác ảnh hưởng đến sự tham gia của người học trong lớp tiếng Anh gồm: điều kiện học tập (kích thước lớp học, thời gian lớp học diễn ra, nhiệt độ phòng học, thời gian buổi học, kiểu hoạt động), yếu tố liên quan đến người dạy (tâm trạng người dạy, tính cách), yếu tố liên quan đến người học (tâm trạng lo lắng, sợ hãi). Nghiên cứu của Maftoon và Ziafar [17] kết luận một số yếu tố ảnh hưởng tương tác của sinh viên Nhật Bản trong lớp học tiếng Anh là nhận thức của sinh viên về vai trò của tiếng Anh trong xã hội Nhật Bản, tâm trạng lo lắng, yếu tố văn hóa, động cơ học tập và kiểu học của sinh viên. 6. Kết quả Kết quả khảo sát 493 sinh viên cho thấy phần lớn sinh viên hưởng ứng học theo hướng tương tác. 5% cho biết trong lớp rất tích cực Nguyễn Thị Huệ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 31 - 38 Email: jst@tnu.edu.vn 35 tương tác với giảng viên, với bạn học. Hơn nửa số sinh viên tham gia khảo sát cho biết tham gia tương tác trong giờ học ở mức khá tích cực, 56,7% trả lời khá thường xuyên tham gia tương tác với giảng viên và 61% khá tích cực tương tác với bạn trong giờ học tiếng Anh. Kết quả cho thấy sinh viên đang thích nghi với phương pháp dạy học tích cực hiện đang được áp dụng ở các lớp tiếng Anh không chuyên trong phạm vi trường- dạy tiếng Anh hướng đến sinh viên giao tiếp được bằng tiếng Anh. Bắt đầu từ năm học 2005-2006 nhà trường thực hiện đổi mới việc dạy và học tiếng Anh không chuyên trong phạm vi toàn trường. Công tác sàng lọc, phân loại trình độ tiếng Anh của sinh viên được thực hiện thông qua các kỳ thi khảo sát tiếng Anh, qua đó những sinh viên chưa đạt mức điểm theo yêu cầu của nhà trường (50/100 điểm) sẽ không được đăng ký học phần Tiếng Anh I. Về việc giảng dạy, giảng viên trong tổ bộ môn tiếng Anh không chuyên đã tích cực thay đổi phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp. Kể từ đó, hoạt động dạy và học trong các lớp tiếng Anh không chuyên không chỉ tập trung vào cung cấp kiến thức ngữ pháp, từ vựng và học chủ yếu bằng cách lắng nghe, ghi chép, làm bài tập có sẵn trong sách; sinh viên bắt buộc phải tham gia các hoạt động ngôn ngữ hướng đến phát triển các kỹ năng sử dụng tiếng Anh tốt. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ vẫn chưa kịp thay đổi, thích nghi hoàn toàn với cách dạy học tích cực. Trên 32% sinh viên trả lời không tích cực tham gia tương tác với giảng viên, với bạn học và khoảng 1% sinh viên cho biết tìm cách né tránh tương tác với giảng viên, với bạn học trong giờ học tiếng Anh. Kết quả khảo sát cho thấy sự thay đổi tích cực của giảng viên trong giảng dạy môn tiếng Anh. Giảng viên sử dụng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt làm phương tiện giảng dạy, trao đổi với sinh viên. 12/14 giảng viên được khảo sát cho biết sử dụng tiếng Anh trong lớp ở mức độ 50% - 90% và sinh viên có thái độ tích cực đối với việc nghe giảng bằng tiếng Anh (theo kết quả khảo sát sinh viên, giảng viên sử dụng tiếng Anh ở mức độ từ 50%-70% so với tiếng Việt là hợp lý vì trình độ sinh viên trong các lớp chủ yếu ở cấp độ đầu trung cấp (pre- intermediate). Ngoài ra, sinh viên khẳng định những lợi ích học tập từ việc nghe giảng bằng tiếng Anh. 84,7% sinh viên cho biết giảng viên tương tác với sinh viên bằng tiếng Anh mang lại cơ hội cho sinh viên rèn luyện nghe và nói; 67,1% cho biết có thể tự điều chỉnh phát âm theo phát âm của giảng viên; 51,5% học thêm từ vựng mới, cấu trúc câu mới khi nghe giảng viên nói; 35,7% có thể phát hiện ra những lỗi sai về từ vựng ngữ pháp để từ đó tự điều chỉnh và tự sửa lỗi sai của mình và 29,2% sinh viên trả lời mình cảm thấy thích thú, được khích lệ học tập môn học này khi giảng viên sử dụng tiếng Anh giảng bài, trao đổi với sinh viên. Ngoài ra, giảng viên đã tích cực thiết kế các bài dạy theo hướng tương tác, khuyến khích sinh viên sử dụng tiếng Anh thông qua hoạt động hỏi đáp giữa giảng viên với sinh viên, các hoạt động tương tác giữa sinh viên với sinh viên. Qua khảo sát sinh viên phần lớn (65,1%) cho rằng hoạt động khuyến khích sinh viên tương tác là trả lời câu hỏi của giảng viên, 42,1% chọn hoạt động thảo luận một chủ đề do giảng viên đưa ra, 32,6% chọn hoạt động giải quyết một vấn đề do giảng viên giao nhiệm vụ, 23,7% chọn hoạt động đóng vai tình huống, 25,7% chọn hoạt động thảo luận một chủ đề cho sinh viên tự chọn và 10,3% chọn hoạt động thực hiện phỏng vấn. Theo đa số sinh viên được khảo sát, các hoạt động tương tác giữa sinh viên với sinh viên mang lại những lợi ích học tập. 92,3% sinh viên trả lời tương tác giúp sinh viên tăng khả năng nghe hiểu; 81,5% cho biết tương tác giúp họ luyện tập khả năng nói và 79,1% chọn tương
File đính kèm:
- tuong_tac_trong_gio_hoc_tieng_anh_khong_chuyen_tai_truong_da.pdf