Tìm hiểu nghĩa gốc và hàm ý văn hóa của chữ “hảo” (好) trong Tiếng Hán
“Hảo” (好) là một trong những từ thường dùng nhất trong tiếng Hán hiện đại, nó không những có
nhiều chức năng cú pháp mà còn là một từ đa nghĩa. Trước đây, nhiều người cho rằng, “hảo” (好) có
nghĩa gốc là “tốt” (优), “đẹp” (美), sau này từ nghĩa gốc được phát triển thêm nhiều nghĩa mở rộng
và những nghĩa này mang nội hàm văn hóa vô cùng phong phú và đặc sắc. Bài viết từ góc độ ngôn
ngữ học xã hội tiến hành phân tích kết cấu và ý nghĩa của chữ “hảo”để tìm ra hàm ý văn hóa của nó,
từ đó chỉ ra nét đẹp của chế độ mẫu hệ và vai trò của người phụ nữ ẩn trong chữ “hảo (好)”.
Từ khóa: “Hảo” (好), hàm ý văn hóa, kết cấu, nghĩa gốc, ý nghĩa
à tồn tại “nguy cơ” đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, cho dù cớ đó các xác thực hay không. Điều này đồng nghĩa với luật pháp được sửa đổi sẽ thúc đẩy chủ nghĩa đơn phương trong quan hệ quốc tế. Và như vậy, tiến trình phát triển của luật pháp quốc tế về sử dụng vũ lực sẽ bị đảo ngược so với mong muốn chung của nhân loại tiến bộ trên thế giới. Nguyên tắc lẽ phải thuộc về kẻ mạnh lại một lần nữa không chịu sự ràng buộc bởi bất cứ cản trở pháp lý nào, sẽ quay lại khống chế đời sống quốc tế. Do vậy, sẽ rất khó để thuyết phục các nước nhỏ với thực lực quân sự hạn chế chấp nhận phương án này. Phương án lựa chọn thứ ba có thể được cân nhắc là kết hợp sử dụng những hạt nhân hợp lý của cả hai phương án thứ nhất và thứ hai. Theo đó, cộng đồng quốc tế sẽ tiếp tục thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế đảm bảo thực hiện pháp luật là Hội đồng Bảo an nhằm răn đe, trừng phạt nghiêm khắc những hành vi lạm dụng quyền tự vệ để chà đạp lên pháp luật quốc tế, đồng thời, tích cực hợp tác và nhân nhượng nhau để đàm phán hoàn thiện pháp luật theo hướng mở rộng hơn nữa các trường 81KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 QUAN HỆ QUỐC TẾ v hợp được phép sử dụng vũ lực để tự vệ so với luật thực định hiện nay. Tuy nhiên, việc mở rộng các trường hợp được phép sử dụng vũ lực để tự vệ không đồng nghĩa với việc cộng đồng quốc tế sẽ thừa nhận hoàn toàn tính hợp pháp của học thuyết chiến tranh phòng ngừa và đánh đòn phủ đầu. Hành vi tự vệ chính đáng phòng ngừa sẽ chỉ được chấp nhận trong một số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định một cách chặt chẽ nhằm hạn chế việc lạm dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vấn đề là, do ưu tiên lợi ích khác nhau, nên những quốc gia thành viên của Liên hợp quốc không dễ dàng thống nhất được với nhau những trường hợp đặc biệt ấy sẽ là những trường hợp nào. Do đó, trong thời gian trước mắt, đây cũng chưa phải là hướng lựa chọn sẽ được hiện thực hóa trong đời sống quốc tế. Khi tất cả những phương án khắc phục tình trạng bất cập của hoạt động sử dụng vũ lực để tự vệ trong quan hệ quốc tế đều chưa được triển khai thực hiện, thì hiện nay, cộng đồng quốc tế vẫn đang phải sống trong tình trạng pháp luật thực định đang tồn tại đã không theo kịp được sự phát triển của đời sống an ninh quốc tế, nên hiệu lực điều chỉnh không cao. Các thể chế bảo vệ pháp luật, đặc biệt là Hội đồng Bảo an, còn bị các thành viên chi phối, nên không thể hoàn thành được chức năng được giao phó là bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật thực định. Quyền sử dụng vũ lực để tự vệ vốn là quyền hợp pháp được pháp luật thừa nhận vẫn đang bị giải thích và áp dụng khác nhau. Các quốc gia có thực lực mạnh, có khả năng chi phối Hội đồng Bảo an vẫn có thể tự do hành động bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế. Trong khi đó, nếu tiến hành hành vi sử dụng vũ lực để tự vệ có tính chất tương tự, thì các thành viên còn lại của cộng đồng quốc tế khó có thể tránh được khả năng bị trừng phạt từ chính Hội đồng Bảo an. Bởi lẽ, quy chế pháp lý về quyền sử dụng vũ lực để tự vệ hiện nay tuy được áp dụng giống nhau đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng khi áp dụng cùng một quy chế đó để trừng phạt những quốc gia khác nhau có những hành vi vi phạm pháp luật quốc tế tương tự nhau, lại có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. Hậu quả pháp lý khác nhau ấy tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng quốc tế và khả năng chi phối cơ quan bảo vệ pháp luật là Hội đồng Bảo an của chính quốc gia tiến hành hành vi tự vệ đó. 3. KẾT LUẬN Với tư cách là công cụ pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong lĩnh vực chính trị và an ninh quốc tế, quy định hiện hành của Hiến chương Liên hợp quốc về sử dụng vũ lực để tự vệ đã tỏ ra lạc hậu hơn so với sự phát triển của đời sống quốc tế. Thêm vào đó, cơ chế bảo vệ pháp luật về tự vệ dựa vào hoạt động của Hội đồng Bảo an cũng tỏ ra không mấy hiệu quả mỗi khi đương sự trong vụ việc là một trong những thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an hoặc đồng minh được họ bảo vệ. Do đó, hành vi lạm dụng quyền tự vệ chà đạp lên chủ quyền của quốc gia khác vẫn thường xảy ra trong quan hệ quốc tế nhưng không phải lúc nào cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý. Chính vì vậy, hiện nay, các quốc gia khác nhau trong cộng đồng quốc tế khi rơi vào tình huống phải cân nhắc việc sử dụng vũ lực để tự vệ thường sẽ dựa trên cơ sở cân nhắc vị thế quốc tế, lợi ích quốc gia của mình... để quyết định lựa chọn hành vi chứ không hoàn toàn dựa vào quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Điều này đương nhiên gây ra những tác động tiêu cực đến trật tự pháp lý cũng như hòa bình và an ninh quốc tế mà Liên hợp quốc và các thành viên phải bảo vệ. Thực tiễn đó đòi hỏi sự đoàn kết, nhân nhượng lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhằm sửa đổi các quy định về quyền tự vệ trong Hiến chương cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện những quy định ấy sao cho phù hợp hơn với những biến đổi về an ninh cũng như tương quan lực lượng giữa các quốc gia trong đời sống quốc tế hiện nay. Chú thích: 1. Năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 3314 để định nghĩa xâm lược vũ trang [6]. Theo Nghị quyết này, xâm lược vũ trang được hiểu là một trong sáu hành vi sau: sử dụng lực lượng vũ trang của quốc gia (hoặc một nhóm quốc gia) tấn công vào lãnh thổ quốc gia khác; không kích hoặc sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào chống lại lãnh thổ quốc gia khác; tạo điều kiện, cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để xâm lược nước khác; tấn công bằng lực lượng vũ trang của quốc gia này vào lực lượng vũ trang của quốc gia khác; đưa các nhóm vũ trang, các băng đảng phiến loạn có vũ trang hoặc lính đánh thuê vào lãnh thổ nước khác với mục đích chống lại quốc gia này; đóng quân trên lãnh thổ nước khác theo một thỏa thuận hợp pháp nhưng đã vi phạm điều kiện hay thời hạn đóng quân. 2. Điều 25 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Các thành viên Liên hợp quốc đồng ý chấp nhận và thực hiện những nghị quyết của Hội đồng Bảo an theo đúng Hiến chương này”. 82 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v QUAN HỆ QUỐC TẾ 3. Trong phán quyết của vụ Các hoạt động quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa ngày 27/6/1986, Tòa án quốc tế đã kết luận rằng, do không có yêu cầu của những nạn nhân của cuộc tấn công vũ trang nên các hành động trợ quân sự và bán quân sự do Mỹ tiến hành ở Nicaragoa không cấu thành hành vi tự vệ tập thể, mà là hành vi vi phạm nguyên tắc Cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ với Nicaragoa. 4. Căng thẳng giữa Israel và các nước láng giềng Ả rập gia tăng vào tháng 5/1967 khi Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser thi hành một loạt các bước đi làm tăng thêm sự lo ngại ở Tel Aviv về một cuộc tấn công có thể xảy ra như yêu cầu các Lực lượng khẩn cấp của Liên hợp quốc làm nhiệm vụ tạo vùng đệm giữa Ai Cập và Israel rời khỏi Sinai; phong tỏa Eo biển Tiran - tuyến hàng hải quan trọng của Israel ra biển Đỏ và Ấn Độ Dương; tuyên bố rằng mục tiêu của bất kỳ cuộc chiến tranh tương lai nào với Israel cũng là để hủy diệt quốc gia Do Thái này... Cho rằng cuộc chiến dường như chắc chắn sẽ diễn ra và khả năng tồn tại bị đe dọa nếu Ai Cập tấn công trước, người Do Thái đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào ngày 5/6/1967. 5. Israel nhìn nhận, với loại lò phản ứng Irag đã có, nhiên liệu đã mua có thể được sử dụng sản xuất vũ khí hạt nhân, và việc Baghdad chấm dứt các cuộc thanh tra của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế là những bằng chứng gián tiếp rằng Irag đang phát triển năng lực hạt nhân quân sự. Do thái độ thù địch của các nhà lãnh đạo Iraq đối với Israel cũng như việc các khu tập trung dân cư và kho vũ khí hạt nhân của Israel dễ bị tổn thương trước đòn tấn công đầu tiên, các nhà lãnh đạo Israel cho rằng không thể ngăn cản được Saddam Husein nếu các lò phản ứng của Iraq hoạt động. Cuộc tấn công năm 1981 diễn ra vì có khả năng vào một thời điểm nào đó trong tương lai Iraq có thể là một mối nguy hạt nhân với Israel./. Tài liệu tham khảo: 1. Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh (2001), Luật Quốc tế - Lý luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Đinh Quý Độ (2007), Vấn đề cải tổ Liên hợp quốc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Danh Đức (2003), Tại sao Tổng thư ký Liên hợp quốc lại “rầu rĩ” đến thế, Việt Báo online, thứ bảy ngày 27/9/2003 . 4. Nguyễn Trường Giang (2008), Những phát triển của Luật pháp quốc tế trong thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Quốc tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 6. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1974), Nghị quyết 3314 về định nghĩa xâm lược. 7. Học viện Quan hệ quốc tế (2007), Luật Quốc tế, Hà Nội. 8. Hiến chương Liên hợp quốc. THE USE OF FORCE IN SELF-DEFENSE UNDER THE CHARTER OF THE UNITED NATIONS - LEGAL REGULATION AND PRACTICAL APPLICATION NGUYEN THI HOAI HUONG Abstract: The UN Charter has universally been seen as a basic international legal document to regulate nation-to-nation relations and deal with international security issues. In fact, it has made a significant contribution to successfully preventing another world war, and maintaining international peace and security at large. Yet Article 51 of the UN Charter, which recognizes UN member nations’ right of self-defense, has led to abuse of force in a number of practical cases. More dangerousl y, some countries have made use of it crafting their defense strategies of preventive blow. This requires the international community to revise Article 51 of the UN Charter so as to minimize the risk of state-to-state conflict and an extensive war, and to firmly guarantee peace and security for every UN member and the world as a whole. Keywords: international security, peace, right of self-defense, the use of force.
File đính kèm:
- 42_0845_2137227.pdf