Thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm của sinh viên chuyên ngành sư phạm Tiếng Anh

Việc xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên khi làm bài tập nhóm là một thao tác quan trọng, nhằm góp

phần nâng cao chất lượng bài tập nhóm của sinh viên và đảm bảo tính công bằng giữa các thành viên.

Tuy nhiên nhiều giảng viên vẫn chưa chú trọng việc này khi cho sinh viên làm bài tập nhóm. Bài viết

nêu lên thực trạng xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh tại thành phố

Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đã nhận thức được lợi ích của việc xác định

tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, nhưng ở mức độ chưa cao và chủ yếu là sinh viên vẫn chia đều tỉ lệ

đóng góp; có nhiều nguyên nhân và hậu quả không xác định tỉ lệ đóng góp. Từ đó, chúng tôi đề xuất

một số biện pháp nhằm hạn chế các hậu quả có thể xảy ra và phát huy tối đa lợi ích của việc xác định tỉ

lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm trong môi trường đại học.

pdf11 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm của sinh viên chuyên ngành sư phạm Tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) 
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 
114 
THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH TỈ LỆ ĐÓNG GÓP KHI LÀM BÀI TẬP 
NHÓM CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH SƯ PHẠM TIẾNG ANH 
Determination of contribution rates of group work among students majoring 
English Pedagogy 
ThS. Đào Vinh Xuân (1), ThS. Trần Nguyễn Minh Nhựt (2) 
(1)Trường Đại học Sài Gòn 
(2)Trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM 
TÓM TẮT 
Việc xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên khi làm bài tập nhóm là một thao tác quan trọng, nhằm góp 
phần nâng cao chất lượng bài tập nhóm của sinh viên và đảm bảo tính công bằng giữa các thành viên. 
Tuy nhiên nhiều giảng viên vẫn chưa chú trọng việc này khi cho sinh viên làm bài tập nhóm. Bài viết 
nêu lên thực trạng xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh tại thành phố 
Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đã nhận thức được lợi ích của việc xác định 
tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, nhưng ở mức độ chưa cao và chủ yếu là sinh viên vẫn chia đều tỉ lệ 
đóng góp; có nhiều nguyên nhân và hậu quả không xác định tỉ lệ đóng góp. Từ đó, chúng tôi đề xuất 
một số biện pháp nhằm hạn chế các hậu quả có thể xảy ra và phát huy tối đa lợi ích của việc xác định tỉ 
lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm trong môi trường đại học. 
Từ khóa: Bài tập nhóm của sinh viên, chất lượng bài tập nhóm, xác định tỉ lệ đóng góp 
ABSTRACT 
Identifying contribution rates of students’ group work is important to raise the quality of students’ group 
work and ensure the fairness among group members. However, many teachers still do not pay attention 
to this when assigning group exercises for students. The article highlights the situation of determining 
the contribution rate of students majoring in English Pedagogy in Ho Chi Minh City. The study results 
showed that the majority of the students were aware of the benefits of determining the rate of 
contribution to group exercises, but this level is not high and mostly students still divided the 
contribution equally. There are many causes and consequences that do not determine the contribution 
rate. From there, we propose a number of measures to limit the possible consequences and maximize the 
benefits of determining the contribution rate when doing group exercises at university. 
Keywords: Students’ group work, quality of students’ group work, determination of contribution rate 
1. Dẫn nhập 
Bài tập nhóm là tài sản trí tuệ của tập thể 
và có sự đóng góp của từng cá nhân, là nhiệm 
vụ quan trọng mà sinh viên (SV) thường 
xuyên thực hiện trong quá trình học tập. Hiện 
nay nhiều công trình như là: “An introduction 
to group work practice” của Toseland & 
Robert (2017); “Group Work in the English 
Language Curriculum: Sociocultural and 
Ecological Perspectives on Second Language 
Email: nhuttnm@kthcm.edu.vn 
ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
115 
Classroom Learning” của Philip Chappell 
(2014) và “Spirals Series Circle: Developing 
Language and Communication Skills through 
Effective Small Group Work” của Nash 
(2011) đã nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến 
thực trạng làm việc nhóm chưa hiệu quả của 
SV như: thiếu kỹ năng làm việc nhóm, chưa 
rõ cách thức trình bày bài tập nhóm, lịch học 
tập của mỗi SV khác nhau do học chế tín 
chỉ dẫn đến khó khăn khi làm việc nhóm. 
Bên cạnh đó, nghiên cứu về việc xác định tỉ lệ 
đóng góp khi làm bài tập nhóm đối với SV 
chưa nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi đã tìm 
hiểu thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi 
làm bài tập nhóm của SV chuyên ngành Sư 
phạm tiếng Anh (SPTA) tại một số trường 
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 
(TP.HCM) trong bối cảnh đất nước đang hội 
nhập sâu rộng khu vực và thế giới như hiện 
nay, đặc biệt là các tổ chức như ASEAN, 
CPTPP rất đề cao vai trò của sở hữu trí tuệ 
trong cuộc sống. Từ đó cho thấy, mức độ 
quan trọng và lợi ích của hoạt động xác định tỉ 
lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm đối với SV 
nói chung và SV chuyên ngành SPTA nói 
riêng, tiến tới xây dựng nền văn hoá tỉ lệ đóng 
góp trong môi trường đại học tại Việt Nam. 
2. Nội dung 
2.1. Khái niệm 
2.1.1. Khái niệm “bài tập nhóm” 
Bài tập là “nội dung giao cho người 
học để tập vận dụng những điều đã học” 
(Thái Xuân Đệ, 2012, tr. 27) hay Bài tập là 
“bài làm học trò làm theo yêu cầu của 
người Thầy” (Hoàng Long, 2012, tr. 25). 
Nhóm là “tập hợp một số người có chung 
định hướng” (Richards, J. & Schmidt, R, 
2010, tr. 99). Do đó, bài tập nhóm là bài 
tập người dạy yêu cầu hai hay nhiều người 
học cùng thực hiện. Tuy nhiên, bài tập 
nhóm có rất nhiều yếu tố liên quan. Một 
trong số đó là “tỉ lệ đóng góp” của SV. 
2.1.2. Khái niệm “tỉ lệ đóng góp” 
Theo Từ điển Tiếng Việt, tỉ lệ là “cái lệ 
dùng để so sánh, là tương quan so sánh 
giữa hai số” (Thái Xuân Đệ, 2012, tr. 155). 
Ngoài ra, làm việc nhóm một hoạt động 
học tập bao gồm một nhóm nhỏ của những 
người học làm việc cùng nhau. Nhóm có 
thể làm việc trên một nhiệm vụ duy nhất 
hoặc trên các phần khác nhau của một 
nhiệm vụ lớn hơn. Nhiệm vụ cho các thành 
viên trong nhóm thường được lựa chọn bởi 
các thành viên của nhóm (Richards & 
Schmidt, 2010, p. 99). Công việc của nhóm 
có thể được định nghĩa là hoạt động hướng 
đến mục tiêu với các nhóm nhiệm vụ nhằm 
đáp ứng nhu cầu xã hội và hoàn thành 
nhiệm vụ. Hoạt động này được hướng đến 
các thành viên nhóm và toàn bộ nhóm 
trong một hệ thống (Toseland & Robert, 
2017, p. 199) Đóng góp là “sự góp sức hay 
tiền bạc vào một công việc gì đó” (Hoàng 
Long, 2012, tr. 52). Do đó, tỉ lệ đóng góp 
là tương quan giữa sự đóng góp công sức 
hay tiền bạc của các thành viên vào một 
công việc chung. 
2.2. Thực trạng 
2.2.1. Mục đích nghiên cứu 
Việc nghiên cứu nhằm làm rõ các nội 
dung như sau: (i) Nhận thức của SV về mức 
độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng 
góp. (ii) Nguyên nhân SV thực hiện/ không 
thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp. (iii) 
Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp của SV. 
(iv) Các vấn đề phát sinh khi không thực 
hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp. 
2.2.2. Phương pháp, công cụ và mẫu 
nghiên cứu 
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra 
bằng phiếu hỏi và phương pháp toán học 
(ứng dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 
116 
để xử lý các số liệu). Công cụ khảo sát là 
phiếu hỏi được xây dựng dựa trên thực 
trạng làm bài tập nhóm của SV hiện nay 
trong một học phần. Phiếu khảo sát gồm 03 
phần với 10 câu hỏi đóng. Số lượng mẫu: 
300 SV chuyên ngành SPTA tại trường Đại 
học Sài Gòn, trường Đại học Sư phạm 
TP.HCM và trường Đại học Sư phạm Kỹ 
thuật TP.HCM được lấy theo cách ngẫu 
nhiên phân tầng từ SV năm nhất đến năm 
cuối trong năm học 2016 - 2017. 
2.2.3. Kết quả nghiên cứu 
Kết quả khảo sát cho thấy các thực 
trạng về: i) Nhận thức của sinh viên mức 
độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng 
góp ii) Nguyên nhân sinh viên thực hiện/ 
không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng 
góp iii) Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp 
của sinh viên và iv) Các vấn đề phát sinh 
khi không thực hiện việc xác định tỉ lệ 
đóng góp 
a) Nhận thức của sinh viên về mức độ 
quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng góp 
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 
các phương diện như: mức độ thường 
xuyên làm bài tập nhóm theo thời gian, 
môn học hay làm nhóm, tính tích cực thành 
viên của nhóm và quan điểm của SV về 
mức độ cần thiết khi xác định tỉ lệ đóng 
góp khi làm bài tập nhóm. 
Bảng 1: Mức độ thường xuyên làm bài tập nhóm 
Xếp hạng Mức độ Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 
1 Khá thường xuyên 170 56,7 
2 Thỉnh thoảng 120 40,0 
3 Không có 10 3,3 
Tổng cộng 300 100 
Từ Bảng 1 cho thấy SV chuyên ngành 
SPTA khá thường xuyên làm bài tập nhóm 
(56,7%). Do đó, việc làm bài tập nhóm là một 
hoạt động thường xuyên và phổ biến ở bậc 
đại học. Các bài tập nhóm đó được thực hiện 
đối với môn chuyên ngành và môn chung, 
đặc biệt nhiều ở các môn chủ chốt của ngành 
SPTA. Tuy nhiên, không phải cá nhân nào 
cũng tích cực làm việc nhóm và kết quả khảo 
sát thực tế cho thấy tỉ lệ thành viên tích cực 
hoạt động trong nhóm là khác nhau. Số liệu 
được thể hiện trong Biểu đồ 1 như sau: 
ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
117 
0
10
20
30
40
50
Khoảng 25% Khoảng 50% Khoảng 75% Khoảng 100%
12.7
50
31.3
6
%
Mức độ
Biểu đồ 1: Tỉ lệ thành viên tích cực khi làm việc nhóm
Tỉ lệ thành viên tích cực trong tổng số thành viên của nhóm
Từ Biểu đồ 1 cho thấy 50% SV 
chuyên ngành SPTA cho rằng chỉ có một 
nửa thành viên của nhóm là hoạt động tích 
cực. Đặc biệt, số liệu cho thấy tất cả thành 
viên của nhóm làm việc tích cực chỉ là 
6%. Do đó, làm việc nhóm là nhiệm vụ 
thường xuyên ở bậc đại học, nhưng không 
phải SV nào cũng tích cực làm việc và 
đóng góp cho bài tập nhóm. Bên cạnh đó, 
có khá nhiều SV còn lơ là, chưa tích cực 
đóng góp cho bài tập của nhóm. Như vậy, 
tỉ lệ thành viên tích cực làm việc và đóng 
góp cho bài tập của nhóm thường không 
cao và không phải SV nào cũng tích cực 
đóng góp công sức cá nhân của mình cho 
bài tập chung của nhóm. Nguyên nhân 
của thực trạng này sẽ được chúng tôi thể 
hiện ở các phần sau. 
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm hiểu 
quan điểm của SV về mức độ cần thiết khi 
xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập 
nhóm được thể hiện trong Bảng 2. 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 
118 
Bảng 2: Mức độ cần thiết khi xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài nhóm 
Xếp hạng Mức độ Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 
1 Cần thiết 250 83,3 
2 Phân vân 30 10,0 
3 Không cần thiết 20 6,7 
Tổng cộng 300 100 
Từ Bảng 2 cho thấy có đến 83,3% SV 
tham gia khảo sát đã nhận biết được sự cần 
thiết và 76,7% SV nói rằng họ có thực hiện 
việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập 
nhóm. Nghĩa là trong thực tế, đa số SV 
cũng đã nhận thức được vai trò của công 
việc xác định tỉ lệ đóng góp này. 
b) Nguyên nhân sinh viên thực hiện/ 
không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp 
Có khá nhiều yếu tố để SV xác định tỉ 
lệ đóng góp, số liệu được thể hiện trong 
Biểu đồ sau: 
Biểu đồ 2: Lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm
2
27.1
47.6
23.3
Lợi ích khác Kích thích thành viên tham gia tích cực
Đảm bảo sự công bằng giữa các thành viên Dễ dàng phân bố lợi ích khi có phát sinh
Từ Biểu đồ 3, chúng ta nhận thấy SV 
chuyên ngành SPTA cho rằng lợi ích lớn 
nhất của hoạt động này là “đảm bảo sự công 
bằng giữa các thành viên” (47,6%), thứ hai 
là “kích thích thành viên tham gia tích cực” 
(27,1%) và kế đến là “dễ dàng phân bổ lợi 
ích phát sinh” (23,3%). Từ đó cho thấy, SV 
đã cơ bản am hiểu nhận biết được lợi ích 
của hoạt động này. Tuy nhiên, nội dung “dễ 
dàng phân bổ lợi ích khi có phát sinh” từ bài 
tập nhóm - một tài sản trí tuệ của cá nhân và 
tập thể - thì SV lựa chọn chưa nhiều. Điều 
này cho thấy một thực trạng: SV còn chưa 
quan tâm và tìm hiểu kỹ lợi ích có thể phát 
sinh từ bài tập nhóm. Thực tế cho thấy, 
thông thường SV không khai thác bài tập 
nhóm gì thêm sau khi hoàn tất. Bên cạnh 
đó, không phải nhóm nào cũng xác định tỉ lệ 
đóng góp khi làm bài tập nhóm và những lý 
do được SV đưa ra là: 
ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
119 
Bảng 3: Lý do sinh viên không xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm 
Xếp hạng Lý do Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 
1 Giảng viên không có yêu cầu 90 30,0 
2 Nể nang bạn bè nên thấy ngại xác định tỉ lệ 83 27,7 
3 Không biết cách xác định như thế nào 69 23,0 
4 Chưa từng nghe qua việc xác định tỉ lệ này 36 12,0 
5 Có xác định tỉ lệ cũng không có lợi ích gì 22 7,3 
 Tổng cộng 300 100 
Từ Bảng 3 cho thấy, có nhiều nguyên 
nhân khiến SV chuyên ngành SPTA 
không xác định tỉ lệ đóng góp. Trong đó 
nguyên nhân chính cũng là lý do phổ biến 
nhất là do “Giảng viên không có yêu cầu” 
(30%) nên SV cũng không thực hiện hoạt 
động này. Thứ hai là tâm lý “nể nang bạn 
bè nên thấy ngại xác định tỉ lệ” (27,7%) 
với bạn cùng lớp. Thứ ba là “không biết 
cách xác định như thế nào” cho phù hợp 
(23%) vì có thể SV không được Thầy/Cô 
hoặc người thân hướng dẫn cách thức thực 
hiện. Ngoài ra cũng có một số lý do khác 
như “chưa từng nghe qua việc xác định tỉ 
lệ này” (12%) hoặc “có xác định tỉ lệ cũng 
không có lợi ích gì” (7,3%) nên SV đã 
không thực hiện. Như vậy, có khá nhiều 
nguyên nhân chủ quan và khách quan 
khiến SV không xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm, điều này có thể dẫn 
đến một số hậu quả phát sinh như phân 
tích ở phần sau. 
c) Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp 
của sinh viên 
Bên cạnh nhận thức và nguyên nhân 
nêu trên, chúng tôi đã khảo sát các cách 
thức mà SV xác định tỉ lệ đóng góp. Số 
liệu được trình bày ở Biểu đồ 3 như sau: 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 
120 
Biểu đồ 3: Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm
60
17
23
0
10
20
30
40
50
60
70
%
Cách thức 60 23 17
Chia đều nhau
Căn cứ vào đóng 
góp thực tế
Căn cứ vào các 
thỏa thuận khác
Theo kết quả khảo sát, có đến 60% SV 
vẫn chia đều nhau tỉ lệ đóng góp cho các 
thành viên, 23% chia theo đóng góp thực tế, 
còn lại theo thoả thuận khác. Do đó, có một 
nghịch lý xảy ra là: mức độ tích cực đóng 
góp của các thành viên là khác nhau, nhưng 
đa số SV chuyên ngành SPTA lại chia đều 
nhau tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm. 
Vì vậy, tỉ lệ SV căn cứ vào “đóng góp thực 
tế” để xác định tỉ lệ đóng góp cho bài tập 
nhóm là chưa cao, trong khi căn cứ này 
chính là cơ sở để đánh giá về mặt điểm số 
hoặc phân chia các lợi ích khác (nếu có) 
giữa các thành viên trong nhóm sau này. 
ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
121 
d) Các vấn đề phát sinh khi không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp 
Biểu đồ 4: Hậu quả khi không xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm
3
52.230.1
14.7
Hậu quả khác
Không công bằng
Chất lượng bài tập nhóm chưa như mong đợi
Xảy ra mâu thuẫn khi quyền lợi phát sinh
Từ thực trạng trên có thể dẫn đến một số 
hậu quả hay vấn đề có thể phát sinh như sau: 
Từ biểu đồ 4 cho thấy có đến 52,2% SV 
cho rằng sự “không công bằng” sẽ xảy ra 
nếu không xác định tỉ lệ đóng góp, điều này 
hoàn toàn trùng khớp với kết quả của Biểu 
đồ 2. Thứ hai là “chất lượng bài tập nhóm 
chưa như mong đợi” (30,1%), điều này cũng 
phản ánh đúng thực tế của SV là có quan 
tâm đến kết quả của bài tập nhóm mình đã 
thực hiện. Và chỉ khoảng 14,7% cho rằng 
“mâu thuẫn có thể xảy ra nếu có lợi ích phát 
sinh” từ bài tập nhóm, điều này cũng hoàn 
toàn trùng khớp với nội dung SV còn hạn 
chế trong việc khai thác, phân bổ lợi ích phát 
sinh nếu có của bài tập nhóm sau khi hoàn 
tất. Từ các vấn đề trên, có thể dẫn đến hậu 
quả là khối lượng công việc nhóm của mỗi 
thành viên phải làm là chưa đồng đều, có thể 
công việc chỉ dồn hết vào một số thành viên 
của nhóm và sẽ có SV không nắm được kiến 
thức trọn vẹn của phần nội dung được giao, 
vì lệ thuộc vào phần thực hiện của các thành 
viên khác. Như vậy, từ những lý do không 
xác định tỉ lệ đóng góp và các vấn đề có thể 
phát sinh, chúng tôi cho rằng SV đã hiểu 
biết phần nào hậu quả có thể xảy ra khi 
không xác định tỉ lệ đóng góp sau khi làm 
bài tập nhóm, tuy nhiên mức độ này vẫn còn 
chưa cao. 
Tóm lại, đa số SV chuyên ngành 
SPTA đã nhận thức được hậu quả và lợi 
ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp này. 
Thế nhưng cần có sự hướng dẫn từ nhà 
trường để hạn chế các vấn đề và phát huy 
được tối đa lợi ích của hoạt động xác định 
tỉ lệ này trong môi trường đại học. 
3. Một số đề xuất 
Trên cơ sở lí luận kết hợp với kết quả 
khảo sát, nhóm nghiên cứu có một số đề 
xuất và kiến nghị sau đây: 
3.1. Về phía nhà trường 
- Định hướng văn hóa xác định tỉ lệ 
đóng góp khi làm bài tập nhóm trong SV 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 
122 
nói chung và SV chuyên ngành SPTA nói 
riêng ngay từ khi SV mới vào đại học. 
- Ban hành các quy định cụ thể về văn 
hóa làm bài tập nhóm và rộng hơn là quản 
trị tài sản trí tuệ. 
3.2. Về phía Giảng viên 
- Hướng dẫn và tạo điều kiện cho SV 
xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập 
nhóm, từ đó giúp SV có kiến thức cơ bản 
về quản trị tài sản trí tuệ cho bản thân. 
- Yêu cầu SV xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm, nhằm tăng tính công 
bằng trong kiểm tra và đánh giá kết quả 
học tập của SV, góp phần nâng cao hơn 
nữa chất lượng giảng dạy. 
3.3. Về phía Sinh viên 
- Ý thức được mức độ quan trọng của 
việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài 
tập nhóm và cần tích cực tham gia khi làm 
việc nhóm. 
- Hình thành thói quen và từng bước 
xây dựng văn hóa xác định tỉ lệ đóng góp 
đúng với đóng góp thực tế, nhằm nâng cao 
hơn nữa chất lượng học tập của SV. 
4. Kết luận 
Bài báo khẳng định mức độ quan trọng 
và lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp 
khi làm bài tập nhóm, góp phần giúp SV 
làm việc nhóm hiệu quả hơn trong môi 
trường đại học. Tuy nhiên, hạn chế của 
nghiên cứu là chỉ mới tập trung vào các 
tiêu chí đánh giá đối với SV chuyên ngành 
SPTA và chưa có sự so sánh đối chiếu với 
các SV ngành khác. Vì vậy, hướng nghiên 
cứu tiếp theo là mở rộng đối tượng nghiên 
cứu và tìm hiểu mối tương quan giữa các 
tiêu chí ảnh hưởng đến việc xác định tỉ lệ 
đóng góp của SV khi làm bài tập nhóm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Hoàng Long (chủ biên) (2012). Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức, tr. 25. 
Nash, M. (et al.) (2011). Spirals Series Circle: Developing Language and Communication 
Skills through Effective Small Group Work, Great Britain: Routledge, p. 88-89. 
Philip Chappell, Ph. (2014). Group Work in the English Language Curriculum: 
Sociocultural and Ecological Perspectives on Second Language Classroom Learning, 
Great Britain: Palgrave Macmillan, p. 89-90. 
Richards, J. & Schmidt, R. (2010). Longman Dictionary of Language Teaching and 
Applied Linguistics, (ed.), Great Britain: Longman, p. 99. 
Thái Xuân Đệ (2012). Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, tr. 27. 
Toseland, R. W. & Robert, R. (2017). An introduction to group work practice, (8th 
editon), Great Britain: Pearson, p. 199. 
Ngày nhận bài: 01/8/2018 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019 
HỘP THƯ BẠN ĐỌC 
Kính gửi Quý bạn đọc, 
Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến Quý bạn đọc và các nhà khoa 
học những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Giáo dục. 
Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn xin trân trọng thông báo đã 
nhận được bài viết của rất nhiều nhà khoa học ở các chuyên ngành và lĩnh vực khác 
nhau. Ban Biên tập chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị. Vì điều kiện giới hạn 
về số lượng bài trong mỗi số, chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp 
theo. 
Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn còn thiếu 
sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc để có thể ngày 
một nâng cao hơn nữa chất lượng cho Tạp chí. 
Một lần nữa, Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm 
ơn Quý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự 
tín nhiệm lâu dài của Quý vị trong tương lai. 
Trân trọng. 
 BAN BIÊN TẬP 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_xac_dinh_ti_le_dong_gop_khi_lam_bai_tap_nhom_cua.pdf
Tài liệu liên quan