Thực trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học trường đại học Sài Gòn
Tiếng Anh giao tiếp du lịch đóng vai trò quan trọng trong chương trình đào tạo ngành Việt Nam học
(Văn hóa – Du lịch) trường đại học Sài Gòn. Mặc dù có nhận thức được về tầm quan trọng của học phần
Tiếng Anh giao tiếp du lịch, nhưng số sinh viên xây dựng chiến lược học tập, phương pháp học tập chưa
nhiều. Điều đó làm cho khả năng nói Tiếng Anh của sinh viên vẫn còn hạn chế. Bài viết khảo sát thực
trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn,
từ đó, đề xuất một số biện pháp để cải thiện việc học của sinh viên đối với học phần này.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 94 THỰC TRẠNG VIỆC HỌC TIẾNG ANH GIAO TIẾP DU LỊCH CỦA SINH VIÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN The current situation of learning English for tourism of Vietnamese studies students at Saigon University ThS. Nguyễn Thành Phương(1), ThS. Nguyễn Thị Minh Thư(2), Nguyễn Thị Hải Hồng(3) (1),(2),(3)Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Tiếng Anh giao tiếp du lịch đóng vai trò quan trọng trong chương trình đào tạo ngành Việt Nam học (Văn hóa – Du lịch) trường đại học Sài Gòn. Mặc dù có nhận thức được về tầm quan trọng của học phần Tiếng Anh giao tiếp du lịch, nhưng số sinh viên xây dựng chiến lược học tập, phương pháp học tập chưa nhiều. Điều đó làm cho khả năng nói Tiếng Anh của sinh viên vẫn còn hạn chế. Bài viết khảo sát thực trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn, từ đó, đề xuất một số biện pháp để cải thiện việc học của sinh viên đối với học phần này. Từ khóa: việc học, Tiếng Anh giao tiếp du lịch, sinh viên ngành Việt Nam học ABSTRACT English for Tourism plays an important role in the educational program of Vietnamese Studies (Culture – Tourism) at Saigon University. Although students are properly aware of the importance of the English for Tourism module, the number of students who have developed learning strategies and learning methods for this module is not high. That has led to students' limited English speaking ability. The paper will examine the current situation of learning English for Tourism of students who study Vietnamese Studies at Saigon University, thereforce, it raises some solutions to improve the effectiveness of students' learning in this module. Keywords: learning, English for Tourism, Vietnamese Studies students 1. Đặt vấn đề Du lịch được khẳng định là một ngành kinh tế quan trọng, không thể thiếu và là động lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác của quốc gia. Trong những năm gần đây, Việt Nam ngày càng chú trọng phát triển du lịch, không chỉ đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Minh chứng cụ thể là lượt du khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng đông, điều đó đã góp phần tăng trưởng nền kinh tế quốc gia. Để tiềm lực này ngày càng phát triển, những người hoạt động trong lĩnh vực du lịch phải có trình độ ngoại ngữ nhất định, đặc biệt là Tiếng Anh bởi sự phổ biến của ngôn ngữ này trên thế giới. Từ đó đặt ra cho các trường đại học, cao đẳng đào tạo chuyên về du lịch sẽ phải bổ sung hoặc tăng thời lượng giảng dạy các học phần Tiếng Anh Email: phuongnguyen.sgu@gmail.com NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 95 vào chương trình đào tạo của nhà trường, đặc biệt là Tiếng Anh giao tiếp du lịch (TAGTDL). Trong xu hướng phát triển chung đó, Trường Đại học Sài Gòn đã đưa Tiếng Anh giao tiếp du lịch vào giảng dạy trong chương trình đào tạo 03 học phần Tiếng Anh giao tiếp du lịch 1, 2 và 3 với tổng cộng 09 tín chỉ (135 tiết), bên cạnh 7 tín chỉ các học phần Tiếng Anh thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương. Trên thực tế, phần lớn sinh viên ngành Việt Nam học (VNH) trường Đại học Sài Gòn có kết quả học tập Tiếng Anh giao tiếp du lịch chưa cao. Để tìm hiểu những nguyên nhân tác động đến kết quả học tập Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học Trường Đại học Sài Gòn, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát thực trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên. Qua đó, nhóm sẽ đề xuất một số biện pháp góp phần cải thiện việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn. 2. Cơ sở lý luận về việc giảng dạy Tiếng Anh giao tiếp du lịch cho ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn 2.1. Mục tiêu đào tạo Tiếng Anh giao tiếp du lịch trường Đại học Sài Gòn Ngành Việt Nam học Trường Đại học Sài Gòn đào tạo cử nhân Việt Nam học chuyên ngành Văn hóa – Du lịch cung ứng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, hướng dẫn viên du lịch và làm việc chủ yếu trong môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ nói. Mặt khác, trong tất cả bốn kỹ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc và viết, nói là kỹ năng quan trọng nhất vì nó rất cần thiết cho giao tiếp hiệu quả (Richards và Rodgers, 2001). Vì thế, học phần Tiếng Anh giao tiếp du lịch tại Trường Đại học Sài Gòn tập trung phát triển kỹ năng nói cho người học với các thuật ngữ chuyên ngành du lịch. Người học sẽ được tiếp cận với môi trường giao tiếp bằng tiếng Anh tại khách sạn, nhà hàng và trong các hoạt động du lịch. 2.2. Đặc điểm của kỹ năng nói Trong quá trình học ngôn ngữ, sự lưu loát và chính xác khi nói là những yếu tố quan trọng của giao tiếp. Do đó, các hoạt động của người học cần được thiết kế dựa trên mối tương quan giữa sự lưu loát và độ chính xác (Mazouzi, 2013). Để phát triển năng lực giao tiếp cần tạo môi trường thực hành cho người học. Biểu hiện của sự lưu loát đó chính là khả năng trả lời mạch lạc bằng cách kết nối các từ, cụm từ, phát âm rõ ràng và sử dụng trọng âm, ngữ điệu trong quá trình nói (Hedge, 2000). Người học cần chú ý đến tính chính xác của ngôn ngữ trong khi nói như tập trung vào cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và cách phát âm (Mazouzi, 2013). Nếu đạt được những yếu tố đề cập ở trên, kỹ năng nói Tiếng Anh của người học sẽ trở nên thuần thục và việc học nói Tiếng Anh của người học sẽ trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả cao. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch Học ngoại ngữ là quá trình phức tạp và lâu dài. Học ngoại ngữ không chỉ dừng lại ở mức biết từ vựng, ngữ pháp mà con phải biết đến bối cảnh văn hóa của nó. Học ngoại ngữ là cuộc đấu tranh vượt qua rào cản của tiếng mẹ đẻ sang một ngôn ngữ mới, văn hóa mới, cách cảm nhận và hành động mới (Brown, 2007). Vì thế, học ngoại ngữ chịu sự tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt kỹ năng nói của người học chịu sự chi phối của các yếu tố sau: Từ vựng là yếu tố quan trọng nhất trong việc học hoặc tiếp nhận một ngôn ngữ mới. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 96 Từ là các khối thô sơ của ngôn ngữ, đơn vị cấu thành các cấu trúc lớn hơn như câu, đoạn văn và văn bản (Read, 2000). Vì vậy, số lượng từ càng nhiều và thuần thục trong việc sử dụng từ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu suất nói của người học. Theo Evans & Green (2007), ngữ pháp, cách phát âm là những yếu tố ảnh hưởng đến việc học kỹ năng nói của người học. Thompson (1996) đã chỉ ra rằng những người học ngoại ngữ sẽ khám phá chức năng cốt lõi của ngữ pháp trong ngữ cảnh giao tiếp. Hiệu suất nói của người học cũng chịu ảnh hưởng của kỹ năng lắng nghe. Doff (1998) cho rằng người học không thể cải thiện khả năng nói trừ khi họ phát triển khả năng nghe. Để có một cuộc đối thoại thành công, người học cần hiểu những gì họ và đối phương trao đổi. Kỹ năng nói phụ thuộc vào sự hiểu biết của người học về chuyên đề. Bachman và Palmer (1996) khẳng định rằng chủ đề kiến thức có tác động lớn đến hiệu suất nói của người học. Động cơ học tập ngoại ngữ là chìa khóa của sự thành công trong việc dạy và học ngoại ngữ (Gardner, 1985). Động cơ học tập ngoại ngữ là một yếu tố phức hợp bao gồm nhiều yếu tố: động cơ học tập bao gồm thái độ và mục đích của người học ngoại ngữ, tình cảm của người học với ngôn ngữ, sự tự tin về bản thân, mong muốn thành công ở ngoại ngữ, chương trình giảng dạy, tài liệu giáo trình, phương pháp giảng dạy, sự tương tác trong nhóm của người học (Dornyei, 2001). 3. Thực trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn 3.1. Câu hỏi nghiên cứu - Mức độ nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của TAGTDL đối với ngành Việt Nam học? - Sinh viên dành bao nhiêu thời gian cho việc học TAGTDL kể cả trên lớp và ngoài lớp? - Mức độ ảnh hưởng đến việc học TAGTDL của sinh viên ngành Việt Nam học? 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung khảo sát thực trạng việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học Trường Đại học Sài Gòn. Thông qua đó, đề tài chỉ ra những yếu tố tác động đến việc học của sinh viên và giải pháp để cải thiện việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch cho sinh viên ngành Việt Nam học Trường đại học Sài Gòn. Đề tài khảo sát sinh viên đang học Tiếng Anh giao tiếp du lịch bao gồm khóa 15 và khóa 16 ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn. 3.3. Kết quả nghiên cứu 3.3.1. Mức độ nhận thức của sinh viên ngành VNH về tầm quan trọng và vai trò của tự học đối với việc học TAGTDL NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 97 Biểu đồ 1: Mức độ nhận thức về tầm quan trọng của SV về học phần TAGTDL Hầu hết 186 sinh viên được khảo sát cho rằng học phần TAGTDL quan trọng đối với ngành Việt Nam học, trong đó: gần 83% số sinh viên được khảo sát cho rằng học phần này rất quan trọng. Qua đó cho thấy, hầu hết sinh viên ý thức được rằng học phần TAGTDL đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nghề nghiệp trong tương lai. Minh chứng cụ thể là trong 186 sinh viên, có 116 sinh viên cho rằng học TAGTDL sẽ giúp cho họ dễ dàng tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp. Một số ít sinh viên cho rằng, học phần này sẽ giúp họ nâng cao các kỹ năng ngoại ngữ để thi lấy chứng chỉ tiếng Anh quốc tế, là cơ sở để thi lấy thẻ hướng dẫn viên quốc tế. Hơn thế nữa, 100% sinh viên được khảo sát cho rằng tự học là quan trọng đối với việc học TAGTDL. Qua đó cho thấy, sinh viên ngành Việt Nam học đã có nhận thức đúng về vai trò của tự học đối với việc học TAGTDL. Trong 186 sinh viên tham gia khảo sát, có 88 sinh viên tự học TAGTDL theo hình thức học một mình, 69 sinh viên học theo nhóm và có 29 sinh viên chọn học theo hình thức khác cụ thể là kết hợp cả hai hình thức. Tất cả sinh viên cả hai khóa dù cho rằng học phần này quan trọng nhưng mức độ nhận thức giữa hai khóa cũng khác nhau. Sinh viên khóa 15 có mức độ nhận thức về vai trò của học phần này cao hơn sinh viên khóa 16, cụ thể: có 87% sinh viên khóa 15 cho rằng học phần này rất quan trọng, chỉ 4,3% cho rằng học phần này quan trọng đối với ngành học; 78% sinh viên khóa 16 nhận thức được rằng học phần này rất quan trọng, tỉ lệ này thấp hơn so với sinh viên khóa 15 khoảng 10%. 3.3.2. Thời gian học và thực hành TAGTDL của sinh viên ngành Việt Nam học Mỗi học phần TAGTDL có 3 tín chỉ tương đương 45 tiết lý thuyết, thời khóa biểu dành cho học phần này phụ thuộc vào sự sắp xếp của đơn vị quản lý đào tạo, trung bình sinh viên phải tích lũy 03 tiết/ tuần trên lớp. Với thời lượng 03 tiết, giảng viên sẽ cung cấp ngữ cảnh, cấu trúc, từ vựng và một số ngữ pháp cơ bản, vì vậy, thời lượng còn lại dành cho thực hành nói không nhiều. Điều cần thiết để khả năng nói của sinh viên trở nên thuần thực đòi hỏi sinh viên phải tự học, tự luyện tập. Trong 186 sinh viên được khảo sát đều học TAGTDL kể cả trên lớp và tự học, tuy nhiên, việc phân bổ thời gian học không đồng đều: phần lớn sinh viên chỉ tự học 01 ngày trong tuần chiếm hơn 45% và chỉ khoảng 6% sinh viên học TAGTDL như thói quen hằng ngày. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 98 Biểu đồ 2: Số ngày sinh viên học TAGTDL trong tuần Hơn thế nữa, thời lượng dành cho việc học TAGTDL trung bình một ngày cũng không đồng đều. Điều này được thể hiện qua biểu đồ bên dưới (Biểu đồ 3). Biểu đồ 3: Thời gian học TAGTDL trung bình một ngày Phần lớn sinh viên dành trung bình dưới 30 phút cho việc học TAGTDL chiếm tỉ lệ trên 50% và số sinh viên học trên 2 giờ vẫn còn hạn chế, chỉ hơn 3%. Qua đó cho thấy, sinh viên ngành Việt Nam học dành thời gian trung bình mỗi ngày cho việc học TAGTDL là chưa cao. Trong số sinh viên được khảo sát, việc phân bổ thời gian tự học còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân. Hầu hết sinh viên ít dành thời gian cho việc tự học là do đi làm thêm (162 lượt chọn), sử dụng cho facebook (45 lượt chọn), chơi game (12 lượt chọn) và một số yếu tố gây “lãng phí” thời gian khác. NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 99 Biểu đồ 4: Mục đích sử dụng thời gian trong việc tự học TAGTDL Trong thời gian tự học, sinh viên ngành Việt Nam học vẫn tập trung vào học thuộc và ghi nhớ từ vựng với 110 lượt chọn, thực hành nói chỉ chiếm 56 lượt chọn, và sinh viên chưa chú trọng đến việc học phát âm đúng chuẩn IPA nên số lượt chọn không cao, chỉ có 32 lượt chọn. Về chiến lược từ vựng, sinh viên chủ yếu tập trung vào học nghĩa của từ mà ít chú trọng đến thể loại của từ hoặc phát âm của từ. Cụ thể: 118 lượt chọn nghĩa của từ vựng, 48 lượt chọn thể loại từ vựng và 51 lượt chọn học phát âm của từ. Một số ít sinh viên cho rằng từ vựng có mối liên hệ với nhau tạo thành một cụm từ thường dùng. Biểu đồ 5: Mức độ thường xuyên thực hành nói TAGTDL của sinh viên Mức độ thường xuyên thực hành nói TAGTDL của sinh viên chưa cao: khoảng 64% sinh viên khảo sát cho rằng ít thường xuyên, 7,0% sinh viên cho rằng không thường xuyên và chỉ hơn 3% sinh viên cho rằng rất thường xuyên. Về ứng dụng công nghệ, sinh viên đã chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào việc học, cụ thể: 36% sinh viên khảo sát đã ứng dụng các ứng dụng hoặc trang SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 100 web để học từ vựng, sinh viên sử dụng các ứng dụng hoặc trang web cho việc học ngữ pháp chiếm khoảng 34%, chỉ 20% sinh viên chọn sử dụng các ứng dụng hoặc trang web cho việc học phát âm. 10% sinh viên còn lại học theo nhiều hình thức khác như: xem các video dạy tiếng Anh, nghe nhạc tiếng Anh, xem phim có phụ đề v.v 3.3.3. Khả năng giao tiếp Tiếng Anh của sinh viên ngành Việt Nam học trong các tình huống hoạt động du lịch Cũng như phân tích ở trên, số sinh viên đầu tư thời gian cho việc học TAGTDL không nhiều nên khả năng nói Tiếng Anh bị ảnh hưởng rất lớn. Trong số 186 sinh viên được khảo sát, có đến 55% cho rằng khả năng nói của mình ở mức trung bình, 13% cho rằng khả năng nói của mình là rất kém, chỉ 5% cho rằng khả năng nói của mình ở mức khá. Cụ thể được biểu diễn qua Biểu đồ 6. Biểu đồ 6: Khả năng nói Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên Biểu đồ cho thấy 56% sinh viên được khảo sát có thể giao tiếp với du khách quốc tế bằng những bài hội thoại đơn giản, không đòi hỏi chuyên môn quá cao, 13% sinh viên có thể giao tiếp trong mọi tình huống và số còn lại chỉ giao tiếp được những câu ngắn hoặc chỉ một hai từ cơ bản. Điều này bị ảnh hưởng rất lớn do thời lượng sinh viên đầu tư vào việc học và xây dựng chiến lược học tập chưa nhiều. Theo kết quả khảo sát, hơn 60% sinh viên cho rằng chú ý đến đặc điểm độ chính xác của ngôn ngữ, 24% sinh viên chú ý đến độ lưu loát và chỉ 14% sinh viên chú ý đến cả 2 đặc điểm trên. Qua đó nhận thấy, sinh viên quá chú trọng đến độ chính xác của ngôn ngữ như ngữ pháp, cách sử dụng từ ngữ nên chất lượng của giao tiếp bị ảnh hưởng, giảm tính tự nhiên của quá trình giao tiếp, và thông thường tạo ra tâm lý sợ sai, sợ mắc lỗi trong giao tiếp. Về chiến lược nói, khoảng 45% sinh viên tìm cách né tránh khi thiếu từ vựng trong khi nói, 17% sinh viên tìm những từ gần nghĩa diễn giải để người đối thoại có thể hiểu thông điệp muốn truyền tải, 30% sinh viên tìm cách mô tả cấu tạo, thành phần, của từ và chỉ 8% có khả năng dùng cách nói khác để diễn giải để ngưới đối thoại hiểu thông điệp của mình. Nhìn chung, phần lớn sinh viên vẫn muốn nói lên điều suy nghĩ trong đầu tuy nhiên vì NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 101 thiếu vốn từ nên ngại nói, từ đó nảy sinh tâm lí sợ sai làm ảnh hưởng đến khả năng nói TAGTDL của sinh viên. Khả năng nói sẽ tiến triển khi sinh viên có thời gian thực hành đủ. Để xem xét tính tương quan giữa mức độ thường xuyên thực hành TAGTDL với khả năng nói của Sinh viên, nhóm tiến hành kiểm nghiệm Chi-Square và kết quả kiểm nghiệm như Bảng 1. Bảng 1: Mối tương quan giữa Mức độ thường xuyên thực hành và khả năng nói của SV Chỉ 1 2 từ cơ bản Chỉ những câu ngắn Bài hội thoại đơn giản Giao tiếp mọi tình huống Không thường xuyên 4 0 3 0 7 Hiếm khi 20 17 82 0 119 Thường xuyên 2 5 13 11 31 Khá thường xuyên 1 5 9 8 23 Rất thường xuyên 0 0 1 5 6 Total 28 26 103 29 186 Mức độ thường xuyên thực hành TAGTDL Khả năng nói của SV Total Kết quả kiểm nghiệm với Cor = 0,77 và Sig < 0,001 (có mức ý nghĩa ở 1%) cho thấy, mức độ thường xuyên thực hành có mối tương quan khá chặt chẽ với khả năng nói của sinh viên. Cụ thể: sinh viên thường xuyên luyện tập, khả năng nói đạt ở mức các bài hội thoại đơn giản hoặc giao tiếp mọi tình huống. Vậy nếu sinh viên có thường xuyên luyện tập thì khả năng nói của sinh viên cũng được cải thiện và nâng cao. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 102 3.3.4. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc học TAGTDL của sinh viên ngành Việt Nam học Biểu đồ 7: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố Biểu đồ 7 cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc học TAGTDL của sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Sài Gòn. Nếu tính theo mức độ ảnh hưởng từ Không ảnh hưởng = 1 và Rất ảnh hưởng = 5, nhìn chung các yếu tố được đề cập đều có mức ảnh hưởng trên trung bình (3.0 trở lên). Cụ thể: yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất là số lượng từ vựng có điểm trung bình là 4,1; thời gian học trên lớp và phương pháp giảng dạy của giảng viên có điểm trung bình là 4,0; yếu tố thấp nhất là sĩ số lớp học và đầu vào của sinh viên với điểm số trung bình 3,0. 4. Một số đề xuất nhằm cải thiện việc học Tiếng Anh giao tiếp du lịch của sinh viên ngành Việt Nam học Trường Đại học Sài Gòn Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của học phần TAGTDL cho sinh viên ngành Việt Nam học Việc nâng cao nhận thức của sinh viên về học phần TAGTDL là rất cần thiết, vì điều đó không chỉ giúp cho họ có động lực học tập học phần này tốt hơn, mà còn giúp cho họ nhận biết vai trò và tầm quan trọng của nó đối với nghề nghiệp trong tương lai. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra, cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền về vai trò và tầm quan trọng của học phần này trong những buổi tọa đàm, tư vấn, các hoạt động ngoại khóa đặc biệt là cần nhấn mạnh vai trò của học phần này trong các buổi tiếp xúc với ban lãnh đạo khoa, talk show về câu chuyện nghề nghiệp trong tương lai hay giao lưu giữa cựu sinh viên và sinh viên đang theo học tại trường. Từ đó, giảng viên phụ trách hỗ trợ sinh viên NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 103 xây dựng kế hoạch học tập học phần này phù hợp với khả năng của từng sinh viên. Thứ hai, xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp dạy học tích cực Đội ngũ giảng viên giảng dạy TAGTDL có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy học tích cực là điều cấp bách hiện nay. Để hoàn thành mục tiêu này, nhà trường cần tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ giảng dạy Tiếng Anh kết hợp nghiệp vụ du lịch ở trong và ngoài nước cho đội ngũ giảng viên. Điều này không chỉ giúp giảng viên cập nhật kiến thức mà còn ứng dụng kiến thức vào trong thực tiễn du lịch, tăng hứng thú học tập cho sinh viên. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần có cơ chế đặc thù cho giảng viên bản xứ tham gia giảng dạy các học phần tiếng Anh nói chung và TAGTDL nói riêng. Hơn thế nữa, phương pháp giảng dạy Tiếng Anh cũng cần phải cải tiến trong thời gian tới, đặc biệ
File đính kèm:
- thuc_trang_viec_hoc_tieng_anh_giao_tiep_du_lich_cua_sinh_vie.pdf