Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – Thực trạng và giải pháp
Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua
chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội
(ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình
giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên
cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy đượcthực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kếtquả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việchọc trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa của người Nhật”. Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn.
181Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH GIẢNG DẠY TIẾNG NHẬT HỘI THOẠI TRỰC TUYẾN VỚI GIẢNG VIÊN NGƯỜI NHẬT BẢN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Thân Thị Mỹ Bình* Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận bài ngày 30 tháng 11 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 21 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 03 năm 2020 Tóm tắt: Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy được thực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kết quả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việc học trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa của người Nhật”... Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn. Từ khóa: giảng dạy trực tuyến, tiếng Nhật, ngoại ngữ 1. Bối cảnh1 Dạy và học ngoại ngữ trực tuyến đã không còn là mới mẻ với việc giảng dạy ngoại ngữ ở Việt Nam và trên thế giới. Thế nhưng, việc học và dạy tiếng Nhật trực tuyến thì ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ. Đặc thù của tiếng Nhật là nguyên nhân khiến các cơ quan giảng dạy tiếng Nhật còn nhiều băn khoăn khi áp dụng mô hình toàn cầu hóa này vào công tác dạy và học. Tuy nhiên, thực tế là giáo dục tiếng Nhật tại Việt Nam đang đối mặt với thực trạng thiếu giáo viên giảng dạy do số lượng người học tăng đột biến. Ngoài ra, xu thế quốc tế hóa về giáo dục ngoại ngữ nhằm sớm đưa người học tiếp xúc với môi * ĐT.: 84-978 969 297 Email: mybinh.ulis@gmail.com trường bản địa, dễ dàng hòa nhập với thực tế ở nước ngoài cũng ngày càng trở nên phổ biến. Với thực tế này, việc áp dụng mô hình giảng dạy trực tuyến với giáo viên bản địa là một bước đi đúng hướng và cần được xem xét một cách nghiêm túc. Một điểm nữa cũng cần phải nhìn nhận tình trạng chung của người học ngoại ngữ Việt Nam là chăm chỉ, nắm chắc ngữ pháp, nhưng lại không áp dụng được vào giao tiếp, công việc và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, khả năng giao tiếp còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ hiện trạng thực tế trên, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản (sau đây gọi tắt là KNN&VHNB), trường Đại học Ngoại ngữ (sau đây gọi tắt là ĐHNN) đã tiến hành thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giáo viên 182 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 người Nhật Bản, với mong muốn làm sáng tỏ tính hiệu quả, cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình giảng dạy này, nhằm chuẩn bị cho việc áp dụng mô hình giảng dạy này trong trường hợp cần thiết. 2. Vài nét về giảng dạy tiếng Nhật trực tuyến và đặc điểm tại Việt Nam Theo Sái Thị Mây (2017:55), giáo dục tiếng Nhật trực tuyến tại Việt Nam đang ngày càng đa dạng, có triển vọng dù phát triển muộn so với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. Tới năm 2017, đã có hơn 20 cơ quan giảng dạy (chủ yếu là các trung tâm và trường dạy tiếng Nhật) áp dụng mô hình giảng dạy này. Dù vậy, hầu hết các cơ quan vẫn duy trì hai loại hình giảng dạy trực tiếp và kết hợp với trực tuyến, đồng thời chủ yếu áp dụng với đối tượng người học có mục đích thi lấy chứng chỉ tiếng Nhật (JLPT). Ngoài ra, Sái Thị Mây chỉ ra rằng các cơ quan áp dụng hình thức giáo dục tiếng Nhật trực tuyến này hầu hết là các trung tâm giảng dạy tiếng Nhật còn non trẻ. Nhưng điểm nổi bật rất đáng quan tâm trong nghiên cứu này là Sái Thị Mây đã nhấn mạnh rằng việc học trực tuyến với người bản ngữ giúp người học phát triển kỹ năng hội thoại, phát âm và để phát triển hai kỹ năng này của tiếng Nhật cần phải tiến hành với giảng viên là người Nhật. Kỹ năng hội thoại, vấn đề phát âm của người học ngoại ngữ là vấn đề nan giải của hầu hết các cơ quan giảng dạy tiếng Nhật ở Việt Nam. Việc phát âm sai, lệch chuẩn của người học tiếng Nhật là một trong những nguyên nhân gây trở ngại trong giao tiếp bằng tiếng Nhật của người Việt Nam. Toda Takako (2017:02) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng Internet để giảng dạy tiếng Nhật như một phương pháp hữu hiệu và hết sức cần thiết. Trong nghiên cứu này, Toda đã nghiên cứu hiệu quả giảng dạy tiếng Nhật trực tuyến tại hệ thống giảng dạy và học trực tuyến quy mô lớn và hoàn toàn miễn phí do Đại học Havard kết hợp với Đại học Massachusetts cùng nghiên cứu phát triển. Hệ thống có có tên là MOOCs (Massive Open Online Courses: 大規模公開オンライ 講座). Khóa học tiếng Nhật trực tuyến cho mọi người yêu thích học tiếng Nhật được giảng dạy trực tiếp trên mạng lưới này đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 11 năm 20161, và tới thời điểm này đã có hơn 25,0002 người học đăng ký thuộc 170 quốc gia trên thế giới. Theo đó, khóa học trực tuyến này đã thu được những thành quả tích cực như số người đăng ký học và duy trì khóa học luôn ở mức cao hơn 20,000 người. Số người tiếp tục học lên trình độ tiếp theo cũng luôn chiếm hơn 50% số lượng đã đăng ký. Thậm chí, số người đăng ký để nhận được chứng chỉ kết thúc khóa học ở cũng ngày càng tăng lên. Dù vậy, Toda cũng nhấn mạnh rằng phương pháp giảng dạy trực tuyến còn nhiều khó khăn trong việc nắm bắt tâm lý người học, duy trì cũng như phát huy phẩm chất người học cũng còn nhiều trở ngại. Ngoài các nghiên cứu tiêu biểu trên, Japan Foundation3 – Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam cũng triển khai chương trình giảng dạy trực tuyến miễn phí với nội dung giảng dạy chú trọng kỹ năng giao tiếp trên 7 quốc gia là Việt Nam, Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia và Peru. Ngoài việc công bố, chia sẻ rộng rãi trang web học trực tuyến, Japan Foundation còn chia sẻ giáo trình trực tuyến nhằm cung cấp cho người học, người dạy những thông tin đầy đủ nhất, 1 Khóa học có tên là Japaneese Pronunciation for Communication (JPC). 2 Con số thống kê ở thời điểm tháng 11 năm 2017 (Toda Takako, 2017:2). 3 Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản được thành lập năm 1972, là một cơ quan đặc biêt của chính phủ Nhật Bản có nhiệm vụ thúc đẩy trao đổi văn hóa, nghệ thuật Nhật Bản và giáo dục tiếng Nhật ra nước ngoài. 183Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 phát huy tối đa khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học tiếng Nhật1. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp giảng dạy cần một quá trình, một thời gian dài thực hiện nên nghiên cứu này sử dụng phương pháp quan sát thực tế (participant observation) và phỏng vấn sâu với đối tượng người học là 6 sinh viên (sau đây gọi tắt là SV) năm thứ hai KNN&VHNB, đồng thời kết hợp phỏng vấn sâu với đối tượng người dạy là chuyên gia của cơ quan tổ chức dạy hội thoại trực tuyến tại Nhật Bản2. Người quan sát thực tế tham gia trực tiếp các giờ học trực tuyến, đồng thời là người trực tiếp giảng dạy, là giáo viên chủ nhiệm đảm nhận 8 tiết/tuần các giờ học tiếng Nhật tổng hợp của 6 SV trên, cũng là người theo dõi sát sao sự thay đổi của người học trước và sau khi thực hiện khóa học. Các thay đổi của từng SV đều được tác giả ghi lại vào sổ tay nghiên cứu (field note3) . Phỏng vấn sâu được thực hiện trong vòng 30 phút với mỗi đối tượng và tất cả nội dung phỏng vấn đều được ghi âm lại phục vụ phân tích.Đặc biệt, các SV này đang theo học chương trình chất lượng cao (sau đây viết tắt là CLC) đã có trình độ tiếng Nhật từ trước khi vào đại học tương đương từ A2~B14. Thời gian thử nghiệm dạy và học 1 Tham khảo trang web sau để biết thông tin chi tiết: https://www.marugoto.org/about/oversea/ 2 Cơ quan hợp tác giảng dạy trực tuyến với KNN&VHNB là Tập đoàn Benesse Group của Nhật Bản. Benesse là một tập đoàn giáo dục tư nhân trực tuyến uy tín hàng đầu tại Nhật Bản. Xin tham khảo trang web: https://www.benesse-hd.co.jp/ja/ 3 Tham khảo phụ lục field note ở cuối bài viết. 4 Theo nghiên cứu của Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản về sự tương quan giữa tiêu chuẩn đánh giá tiếng Nhật chuẩn JF (JF Standard) và các mức độ đánh giá tiếng Nhật theo tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng Nhật hiện nay (JLPT), cấp độ A2 ~B1 của tiếng Nhật tương đương với trình độ N3 ~ N2 của JLPT. Trong đó, cấp độ A2 nghiêng về N3 và cấp độ B1 nghiêng trực tuyến từ tháng 12 năm 2018 tới tháng 4 năm 2019. Các bước thực hiện lớp học chi tiết như Bảng 1 và thông tin cụ thể về người học ở Bảng 2. Bảng 1. Trình tự thực hiện khóa học thử nghiệm Số TT Nội dung 1 Kiểm tra trình độ người học 2 Thăm dò ý kiến người học 3 Bố trí giáo viên theo năng lực và mong muốn người học 4 Thực hiện lớp học 5 Phản hồi từ người học 6 Phản hồi từ người dạy 7 Tổng kết về khóa học Theo bảng 1, trước khi khóa học bắt đầu từ mục 4, cơ quan giảng dạy trực tuyến đã tiến hành 3 bước quan trọng nhằm bố trí lớp học phù hợp nhất với người học. Trong đó, khâu quan trọng là kiểm tra trình độ người học để lựa chọn chương trình dạy, được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực tuyến trong vòng 15 phút. Nội dung phỏng vấn được thiết kế để đo năng lực tiếng Nhật của người học theo tiêu chí đánh giá kỹ năng hội thoại chuẩn tiếng Nhật JF. Tiêu chí đánh giá này được Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản xây dựng trên cơ sở tiêu chính đánh giá năng lực tiếng Anh của Khung tham chiếu Châu Âu (CEFR). Người học không chỉ trả lời câu hỏi đơn thuần, mà trả lời các câu hỏi từ đơn giản tới phức tạp, có thể xác định được cách sử dụng ngữ pháp, cách dùng từ, phân tích tình huống và nêu quan điểm. Với các trình tự chặt chẽ trên, thông tin cụ thể và năng lực tiếng Nhật của đối tượng người học trước khi chương trình dạy học trực tuyến tiến hành khái quát như Bảng 2 sau đây. về phía trình độ của N2. Tiêu chuẩn đánh giá tiếng Nhật chuẩn JF này được căn cứ vào tiêu chí đánh giá năng lực tiếng Anh dựa theo Khung tham chiếu chung châu Âu (CEFR). 184 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 Bảng 2. Thông tin người học Số thứ tự Trình độ tiếng Nhật trước khi tham dự Thời gian học Số buổi tham dự VN 01 N2 12/2018 6 VN 02 N2 12/2018 4 VN 03 N2 12/2018 4 VN 04 N2 12/2018 6 VN 05 N3 12/2018, 2~3/2019, 4~7/2019 18 VN 06 N2 12/2018, 2~3/2019 8 Theo số liệu của Bảng 2, các SV02, SV03 tham gia 4 buổi học và SV01, SV02 tham gia 6 buổi học. SV06 tham gia 8 buổi học, riêng SV 05 tham gia được 18 buổi. Sự chênh lệch về thời gian tham gia này là do các môn học chung bị trùng với khung thời gian học online. Ngoài ra, ban đầu khóa học thử nghiệm dự định tiến hành trong vòng 2 tháng. Nhưng trường hợp của VN05 được đặc biệt theo học tiếp tới thời điểm tháng 7 năm 2019 vì có sự cố gắng và tiến bộ rõ rệt nhất trong tất cả các SV tham dự. Để hiểu rõ hơn về tính hiệu quả cũng như thực tiễn tình hình khóa học, phần 4 tiếp theo sẽ khái quát về thực trạng người học trước khi tham gia khóa học. 4. Thực trạng người học trước khi tham gia khóa học Ở phần phân tích thực trạng, thực tiễn tình hình người học trước khi tham gia khóa học, nội dung sẽ được trình bày theo các từ khóa như sau: Năng lực người học, nguyện vọng người học, cơ hội tiếp xúc với người Nhật, thời gian học tiếng Nhật. 4.1. Năng lực người học Như đã trình bày ở mục 3, năng lực người học trong nghiên cứu này được các giảng viên người Nhật tiến hành đánh giá bằng một bài kiểm tra phỏng vấn trực tuyến thông qua phần mềm trực tuyến Skype. Người tiến hành phỏng vấn trực tuyến là chuyên gia về giáo dục tiếng Nhật của Benesse, phụ trách các chương trình sách giáo khoa, tài liệu tham khảo tiếng Nhật, thiết kế chương trình học và giảng dạy tiếng Nhật8. Chủ đề của phỏng vấn xoay quanh nhà trường, học tiếng Nhật cũng như mong muốn của SV với khóa học. Thời gian phỏng vấn với mỗi SV là 15 phút và tiến hành hai lượt, với hai người hỏi khác nhau. Cụ thể như sau: Bảng 3. Kết quả kiểm tra năng lực tiếng Nhật trước khóa học91 Số thứ tự Hội thoại Nghe Ngữ pháp Viết Tổng điểm 40 15 15 30 100 VN 01 15 5 10.5 24 54.5 VN 02 28 5 10.5 30 73.5 VN 03 19.5 5 12 21.5 58 VN 04 34.5 5 13 30 82.5 VN 05 26 0 12 12 50 VN 06 30 10 13.5 12 65.5 Bình quân 25.5 5.0 11.9 21.5 63.9 Tỉ lệ 63.7% 33.3% 79.3% 71.6% 61.9% 8. Theo chia sẻ từ phía cơ quan giảng dạy Benesse. 9. Kết quả kiểm tra này do các giảng viên của cơ quan đào tạo trực tuyến Nhật Bản tiến hành với toàn bộ SV lớp CLC QH 2018 của Trường ĐHNN – ĐHQGHN.Nội dung phỏng vấn dựa trên cơ sở năng lực từng người học cung cấp ở bảng 2. 185Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 Số liệu ở Bảng 3 cho thấy người học được kiểm tra 4 kỹ năng trước khi tham gia khóa học là nghe, nói, đọc, viết. Điểm cho kỹ năng hội thoại là 40, kỹ năng nghe là 15, kỹ năng ngữ pháp là 15, và viết là 30. Tổng điểm 4 kỹ năng là 100. Với sự phân bố điểm số này, có thể thấy cơ quan giảng dạy coi trọng kỹ năng giao tiếp, hội thoại của người học khi cho số điểm của hội thoại là cao nhất với 40 điểm. Nội dung của bài kiểm tra các kỹ năng dựa trên năng lực tiếng Nhật mà SV cung cấp ở Bảng 2. Bài kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm trực tiếp trên hệ thống trực tuyến với thời gian cho mỗi kỹ năng nghe, ngữ pháp, hội thoại là 15 phút. Riêng bài viết làm theo hình thức tự luận với chủ đề liên quan tới mong muốn, kỳ vọng của người học ở khóa học trực tuyến. Theo kết quả ở Bảng 3, nhìn chung khả năng ngữ pháp và viết của các SV tương đối khả quan. Cụ thể là tỉ lệ hoàn thành bài ngữ pháp là 79.3%, tỉ lệ hoàn thành bài viết cũng là 71.6%. Ngược lại, tỉ lệ hoàn thành của bài hội thoại là 63.7% và nghe là 33.3%, thấp hơn nhiều so với kỹ năng viết và ngữ pháp. Kết quả này cũng cho thấy dù SV đã đạt được trình độ tiếng Nhật nhất định (Bảng 2) nhưng năng lực giao tiếp, trao đổi của SV còn hạn chế. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy sự không đồng đều về lực học giữa các cá nhân. Điều này thường ảnh hưởng tới chất lượng của một lớp học do thiếu sự đồng nhất, dẫn tới sự lệch pha trong việc truyền tải của người dạy và tiếp nhận kiến thức của người học. Tuy nhiên, ở lớp học trực tiếp hiện nay, việc bố trí một lớp học tương ứng với từng trình độ người học là một khó khăn. Và điều này có thể khắc phục bằng cách giảng dạy trực tuyến. Khi được hỏi về mức độ tự tin trong quá trình sử dụng tiếng Nhật, rất ít SV khẳng định mình có thể tự tin trong quá trình giao tiếp, cũng như trong việc đọc hay viết, thậm chí cả vấn đề từ vựng. Kết quả này thể hiện ở Biểu đồ 1 dưới đây. Biểu đồ cho thấy mặc dù là lớp học chất lượng cao, và là các SV đã có trình độ tiếng Nhật nhất định trước khi vào đại học, nhưng đa số SV được hỏi đều không có tự tin hoặc ít tự tin khi được hỏi về khả năng giao tiếp. Cụ thể, số SV không tự tin trong giao tiếp hội thoại với người Nhật là 46.2%, 38.5 % không xác định được rõ là mình có thể giao tiếp tự tin hay không, và chỉ có 15.4% số SV trả lời rằng có chút tự tin khi sử dụng bằng tiếng Nhật. Kết quả này một lần nữa phản ánh rằng kỹ năng hội thoại là một trong những kỹ năng còn yếu với nhiều SV học tiếng Nhật và là điểm mà giáo dục tiếng Nhật cần khắc phục trong thời gian tới đây. Hơn nữa, khi đối chiếu với năng lực tiếng Nhật mà người học cung cấp ở Bảng 2 trên, trừ trường hợp VN05 mới có chứng chỉ N3 về tiếng Nhật, còn lại 5 SV đều đã có chứng chỉ N2, thì thấy rằng dù các SV đã có chứng chỉ tiếng Nhật cần thiết ở thời điểm đầu năm thứ 2 đại học, năng lực giao tiếp chưa phản ánh được trình độ mà các chứng chỉ yêu cầu10. Điều này cũng củng cố rằng, cần đẩy mạnh việc kỹ năng nghe nói, kỹ năng hội thoại của người học. 10. Tham khảo năng lực tiếng Nhật chuẩn JF tương ứng với các tiêu chí của CEFR: https://jfstandard.jp/pdf/ whole_standard.pdf,và các trình độ tương ứng của các bậc năng lực của kỳ thi chứng chỉ tiếng Nhật N5~N1: https://www.jlpt.jp/about/levelsummary.html. Biểu đồ 1. Mức độ tự tin của người học khi sử dụng tiếng Nhật 186 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 4.2. Nguyện vọng của người học Việc tìm hiểu nguyện vọng, cũng như mục đích của người học tiếng Nhật sau khi ra trường nhằm triển khai một nội dung dạy phù hợp cho SV, cũng như đáp ứng nhu cầu học tiếng Nhật với từng đối tượng. Với câu hỏi phỏng vấn là “Hãy cho biết kế hoạch sau khi tốt nghiệp đại học của bạn.”, kết quả cụ thể như Biểu đồ 2. Biểu đồ 2. Nguyện vọng người học sau tốt nghiệp Biểu đồ 2 cho thấy mục đích học tiếng Nhật sau khi ra trường của nhiều SV là tới Nhật Bản làm việc (38.5%), tiếp đến là làm việc cho công ty Nhật Bản tại Việt Nam (30.4%). Số SV có nguyện vọng sử dụng tiếng Nhật cho công việc tại Việt Nam cũng là 23.1%, và chỉ có ít SV có nguyện vọng đi du học tại Nhật Bản (8.0 %). Những thông số này chứng tỏ mục đích lớn nhất của người học là sử dụng tiếng Nhật trong công việc dù ở Nhật Bản hay ở Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người học cần có khả năng giao tiếp, hiểu biết văn hóa cũng như trao đổi, xây dựng các mối quan hệ. Việc học với giảng viên người Nhật cũng có chung mục tiêu là giúp SV nắm bắt được các kỹ năng giao tiếp cũng như nâng cao tự tin khi sử dụng tiếng Nhật với người Nhật trong tình huống thực tế. 4.3. Cơ hội tiếp xúc với người Nhật Bản Việc học ngoại ngữ không gì tốt hơn là học tại môi trường bản địa và được thực hành với người bản ngữ. Tuy nhiên, điều này vốn khó thực hiện vì không phải ai cũng có điều kiện đi du học ở nước ngoài. Việc học ngoại ngữ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế vì cơ hội tiếp xúc với giáo viên bản ngữ còn ít, SV cũng chưa có điều kiện đi trao đổi, thực tế ở môi trường ngôn ngữ mình học. Tuy nhiên, với SV của một cơ sở đào tạo ngoại ngữ hàng đầu Việt Nam là KNN&VNNB – Trường ĐHNN, cơ hội tiếp xúc với người bản ngữ, mà cụ thể là người Nhật được thể hiện ở Biểu đồ 3. Biểu đồ 3. Cơ hội tiếp xúc với người Nhật Nhìn vào Biểu đồ 3, ta có thể thấy rằng cơ hội được tiếp xúc với người bản ngữ của SV KNN&VHNB – ĐHNN là không ít. Hơn 70% số người được hỏi trả lời rằng có gặp gỡ với người Nhật hàng tuần từ 1 tới 2 lần. Tuy nhiên, theo các SV, đây là những giờ dạy trên lớp của giảng viên người Nhật Bản, không phải là giao tiếp thường nhật. Ngoài ra, giờ học của các thầy cô người Nhật cũng không hoàn toàn là giờ hội thoại, có thể là giờ học chữ Hán hoặc kỹ năng viết. Vì vậy, không có nghĩa giờ học này là dành cho việc phát triển kỹ năng hội thoại. 4.4. Thời gian học tiếng Nhật của SV Theo khảo sát về thời gian học tiếng Nhật của SV, hầu hết các SV đã có thời gian học tiếng Nhật nhất định trước khi vào đại học. Phần lớn trong số này được học ở các trường cấp 2, hoặc cấp 3 có đào tạo tiếng Nhật với thời gian học là từ 3 đến 5 năm. Ngoài ra, theo các SV, trong thời gian học tiếng Nhật ở cấp 3 187Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195 cũng có thời gian đi học thêm ở các trung tâm tiếng Nhật, hoặc học luyện thi để có chứng chỉ tiếng Nhật. Những đặc điểm này cho thấy việc học ngoại ngữ chỉ ở trong các trường học chính quy còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người học. 4.5. Mục đích tham gia khóa học hội thoại trực tuyến
File đính kèm:
- thu_nghiem_mo_hinh_giang_day_tieng_nhat_hoi_thoai_truc_tuyen.pdf