Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – Thực trạng và giải pháp

Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua

chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội

(ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình

giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên

cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy đượcthực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kếtquả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việchọc trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa của người Nhật”. Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn.

pdf15 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
181Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH GIẢNG DẠY 
TIẾNG NHẬT HỘI THOẠI TRỰC TUYẾN VỚI GIẢNG VIÊN 
NGƯỜI NHẬT BẢN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
Thân Thị Mỹ Bình* 
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận bài ngày 30 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 03 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua 
chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội 
(ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình 
giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên 
cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy được 
thực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kết 
quả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việc 
học trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng 
thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa 
của người Nhật”... Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi 
phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức 
dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn. 
Từ khóa: giảng dạy trực tuyến, tiếng Nhật, ngoại ngữ
1. Bối cảnh1
 Dạy và học ngoại ngữ trực tuyến đã 
không còn là mới mẻ với việc giảng dạy 
ngoại ngữ ở Việt Nam và trên thế giới. Thế 
nhưng, việc học và dạy tiếng Nhật trực tuyến 
thì ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ. Đặc 
thù của tiếng Nhật là nguyên nhân khiến các 
cơ quan giảng dạy tiếng Nhật còn nhiều băn 
khoăn khi áp dụng mô hình toàn cầu hóa này 
vào công tác dạy và học. Tuy nhiên, thực tế 
là giáo dục tiếng Nhật tại Việt Nam đang đối 
mặt với thực trạng thiếu giáo viên giảng dạy 
do số lượng người học tăng đột biến. Ngoài 
ra, xu thế quốc tế hóa về giáo dục ngoại ngữ 
nhằm sớm đưa người học tiếp xúc với môi 
* ĐT.: 84-978 969 297 
Email: mybinh.ulis@gmail.com
trường bản địa, dễ dàng hòa nhập với thực 
tế ở nước ngoài cũng ngày càng trở nên phổ 
biến. Với thực tế này, việc áp dụng mô hình 
giảng dạy trực tuyến với giáo viên bản địa là 
một bước đi đúng hướng và cần được xem 
xét một cách nghiêm túc. Một điểm nữa cũng 
cần phải nhìn nhận tình trạng chung của 
người học ngoại ngữ Việt Nam là chăm chỉ, 
nắm chắc ngữ pháp, nhưng lại không áp dụng 
được vào giao tiếp, công việc và cuộc sống 
sinh hoạt hằng ngày, khả năng giao tiếp còn 
nhiều hạn chế. Xuất phát từ hiện trạng thực 
tế trên, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản 
(sau đây gọi tắt là KNN&VHNB), trường Đại 
học Ngoại ngữ (sau đây gọi tắt là ĐHNN) 
đã tiến hành thử nghiệm mô hình giảng dạy 
tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giáo viên 
182 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
người Nhật Bản, với mong muốn làm sáng tỏ 
tính hiệu quả, cũng như những điểm cần khắc 
phục của mô hình giảng dạy này, nhằm chuẩn 
bị cho việc áp dụng mô hình giảng dạy này 
trong trường hợp cần thiết. 
2. Vài nét về giảng dạy tiếng Nhật trực 
tuyến và đặc điểm tại Việt Nam 
Theo Sái Thị Mây (2017:55), giáo dục 
tiếng Nhật trực tuyến tại Việt Nam đang ngày 
càng đa dạng, có triển vọng dù phát triển 
muộn so với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. 
Tới năm 2017, đã có hơn 20 cơ quan giảng 
dạy (chủ yếu là các trung tâm và trường dạy 
tiếng Nhật) áp dụng mô hình giảng dạy này. 
Dù vậy, hầu hết các cơ quan vẫn duy trì hai 
loại hình giảng dạy trực tiếp và kết hợp với 
trực tuyến, đồng thời chủ yếu áp dụng với đối 
tượng người học có mục đích thi lấy chứng 
chỉ tiếng Nhật (JLPT). Ngoài ra, Sái Thị Mây 
chỉ ra rằng các cơ quan áp dụng hình thức 
giáo dục tiếng Nhật trực tuyến này hầu hết là 
các trung tâm giảng dạy tiếng Nhật còn non 
trẻ. Nhưng điểm nổi bật rất đáng quan tâm 
trong nghiên cứu này là Sái Thị Mây đã nhấn 
mạnh rằng việc học trực tuyến với người bản 
ngữ giúp người học phát triển kỹ năng hội 
thoại, phát âm và để phát triển hai kỹ năng 
này của tiếng Nhật cần phải tiến hành với 
giảng viên là người Nhật. Kỹ năng hội thoại, 
vấn đề phát âm của người học ngoại ngữ là 
vấn đề nan giải của hầu hết các cơ quan giảng 
dạy tiếng Nhật ở Việt Nam. Việc phát âm sai, 
lệch chuẩn của người học tiếng Nhật là một 
trong những nguyên nhân gây trở ngại trong 
giao tiếp bằng tiếng Nhật của người Việt 
Nam. 
 Toda Takako (2017:02) cũng nhấn mạnh 
tầm quan trọng của việc sử dụng Internet để 
giảng dạy tiếng Nhật như một phương pháp 
hữu hiệu và hết sức cần thiết. Trong nghiên 
cứu này, Toda đã nghiên cứu hiệu quả giảng 
dạy tiếng Nhật trực tuyến tại hệ thống giảng 
dạy và học trực tuyến quy mô lớn và hoàn 
toàn miễn phí do Đại học Havard kết hợp với 
Đại học Massachusetts cùng nghiên cứu phát 
triển. Hệ thống có có tên là MOOCs (Massive 
Open Online Courses: 大規模公開オンライ
講座). Khóa học tiếng Nhật trực tuyến cho 
mọi người yêu thích học tiếng Nhật được 
giảng dạy trực tiếp trên mạng lưới này đã 
chính thức đi vào hoạt động từ tháng 11 năm 
20161, và tới thời điểm này đã có hơn 25,0002 
người học đăng ký thuộc 170 quốc gia trên 
thế giới. Theo đó, khóa học trực tuyến này 
đã thu được những thành quả tích cực như số 
người đăng ký học và duy trì khóa học luôn ở 
mức cao hơn 20,000 người. Số người tiếp tục 
học lên trình độ tiếp theo cũng luôn chiếm 
hơn 50% số lượng đã đăng ký. Thậm chí, số 
người đăng ký để nhận được chứng chỉ kết 
thúc khóa học ở cũng ngày càng tăng lên. 
Dù vậy, Toda cũng nhấn mạnh rằng phương 
pháp giảng dạy trực tuyến còn nhiều khó 
khăn trong việc nắm bắt tâm lý người học, 
duy trì cũng như phát huy phẩm chất người 
học cũng còn nhiều trở ngại. 
Ngoài các nghiên cứu tiêu biểu trên, Japan 
Foundation3 – Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản 
tại Việt Nam cũng triển khai chương trình 
giảng dạy trực tuyến miễn phí với nội dung 
giảng dạy chú trọng kỹ năng giao tiếp trên 7 
quốc gia là Việt Nam, Thái Lan, Hàn Quốc, 
Indonesia, Ấn Độ, Malaysia và Peru. Ngoài 
việc công bố, chia sẻ rộng rãi trang web học 
trực tuyến, Japan Foundation còn chia sẻ giáo 
trình trực tuyến nhằm cung cấp cho người 
học, người dạy những thông tin đầy đủ nhất, 
1 Khóa học có tên là Japaneese Pronunciation for 
Communication (JPC).
2 Con số thống kê ở thời điểm tháng 11 năm 2017 
(Toda Takako, 2017:2).
3 Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản được thành lập năm 
1972, là một cơ quan đặc biêt của chính phủ Nhật 
Bản có nhiệm vụ thúc đẩy trao đổi văn hóa, nghệ 
thuật Nhật Bản và giáo dục tiếng Nhật ra nước ngoài. 
183Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
phát huy tối đa khả năng tự học, tự nghiên cứu 
của người học tiếng Nhật1. 
3. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp giảng dạy cần một quá 
trình, một thời gian dài thực hiện nên nghiên 
cứu này sử dụng phương pháp quan sát thực 
tế (participant observation) và phỏng vấn sâu 
với đối tượng người học là 6 sinh viên (sau 
đây gọi tắt là SV) năm thứ hai KNN&VHNB, 
đồng thời kết hợp phỏng vấn sâu với đối 
tượng người dạy là chuyên gia của cơ quan tổ 
chức dạy hội thoại trực tuyến tại Nhật Bản2.
Người quan sát thực tế tham gia trực tiếp các 
giờ học trực tuyến, đồng thời là người trực 
tiếp giảng dạy, là giáo viên chủ nhiệm đảm 
nhận 8 tiết/tuần các giờ học tiếng Nhật tổng 
hợp của 6 SV trên, cũng là người theo dõi sát 
sao sự thay đổi của người học trước và sau 
khi thực hiện khóa học. Các thay đổi của từng 
SV đều được tác giả ghi lại vào sổ tay nghiên 
cứu (field note3) . Phỏng vấn sâu được thực 
hiện trong vòng 30 phút với mỗi đối tượng và 
tất cả nội dung phỏng vấn đều được ghi âm 
lại phục vụ phân tích.Đặc biệt, các SV này 
đang theo học chương trình chất lượng cao 
(sau đây viết tắt là CLC) đã có trình độ tiếng 
Nhật từ trước khi vào đại học tương đương 
từ A2~B14. Thời gian thử nghiệm dạy và học 
1 Tham khảo trang web sau để biết thông tin chi tiết: 
https://www.marugoto.org/about/oversea/
2 Cơ quan hợp tác giảng dạy trực tuyến với 
KNN&VHNB là Tập đoàn Benesse Group của Nhật 
Bản. Benesse là một tập đoàn giáo dục tư nhân trực 
tuyến uy tín hàng đầu tại Nhật Bản. Xin tham khảo 
trang web: https://www.benesse-hd.co.jp/ja/
3 Tham khảo phụ lục field note ở cuối bài viết.
4 Theo nghiên cứu của Quỹ giao lưu quốc tế Nhật 
Bản về sự tương quan giữa tiêu chuẩn đánh giá tiếng 
Nhật chuẩn JF (JF Standard) và các mức độ đánh giá 
tiếng Nhật theo tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng 
Nhật hiện nay (JLPT), cấp độ A2 ~B1 của tiếng Nhật 
tương đương với trình độ N3 ~ N2 của JLPT. Trong 
đó, cấp độ A2 nghiêng về N3 và cấp độ B1 nghiêng 
trực tuyến từ tháng 12 năm 2018 tới tháng 4 
năm 2019. Các bước thực hiện lớp học chi 
tiết như Bảng 1 và thông tin cụ thể về người 
học ở Bảng 2. 
Bảng 1. Trình tự thực hiện khóa học 
thử nghiệm
Số TT Nội dung
1 Kiểm tra trình độ người học
2 Thăm dò ý kiến người học
3 Bố trí giáo viên theo năng lực và mong 
muốn người học
4 Thực hiện lớp học
5 Phản hồi từ người học
6 Phản hồi từ người dạy
7 Tổng kết về khóa học
Theo bảng 1, trước khi khóa học bắt đầu 
từ mục 4, cơ quan giảng dạy trực tuyến đã 
tiến hành 3 bước quan trọng nhằm bố trí lớp 
học phù hợp nhất với người học. Trong đó, 
khâu quan trọng là kiểm tra trình độ người 
học để lựa chọn chương trình dạy, được 
thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực 
tuyến trong vòng 15 phút. Nội dung phỏng 
vấn được thiết kế để đo năng lực tiếng Nhật 
của người học theo tiêu chí đánh giá kỹ năng 
hội thoại chuẩn tiếng Nhật JF. Tiêu chí đánh 
giá này được Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản 
xây dựng trên cơ sở tiêu chính đánh giá năng 
lực tiếng Anh của Khung tham chiếu Châu 
Âu (CEFR). Người học không chỉ trả lời câu 
hỏi đơn thuần, mà trả lời các câu hỏi từ đơn 
giản tới phức tạp, có thể xác định được cách 
sử dụng ngữ pháp, cách dùng từ, phân tích 
tình huống và nêu quan điểm. Với các trình 
tự chặt chẽ trên, thông tin cụ thể và năng lực 
tiếng Nhật của đối tượng người học trước khi 
chương trình dạy học trực tuyến tiến hành 
khái quát như Bảng 2 sau đây. 
về phía trình độ của N2. Tiêu chuẩn đánh giá tiếng 
Nhật chuẩn JF này được căn cứ vào tiêu chí đánh 
giá năng lực tiếng Anh dựa theo Khung tham chiếu 
chung châu Âu (CEFR).
184 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
Bảng 2. Thông tin người học 
Số thứ tự
Trình độ tiếng Nhật
trước khi tham dự
Thời gian học Số buổi tham dự
VN 01 N2 12/2018 6
VN 02 N2 12/2018 4
VN 03 N2 12/2018 4
VN 04 N2 12/2018 6
VN 05 N3 12/2018, 2~3/2019, 4~7/2019 18
VN 06 N2 12/2018, 2~3/2019 8
Theo số liệu của Bảng 2, các SV02, SV03 
tham gia 4 buổi học và SV01, SV02 tham gia 
6 buổi học. SV06 tham gia 8 buổi học, riêng 
SV 05 tham gia được 18 buổi. Sự chênh lệch 
về thời gian tham gia này là do các môn học 
chung bị trùng với khung thời gian học online. 
Ngoài ra, ban đầu khóa học thử nghiệm dự 
định tiến hành trong vòng 2 tháng. Nhưng 
trường hợp của VN05 được đặc biệt theo học 
tiếp tới thời điểm tháng 7 năm 2019 vì có sự 
cố gắng và tiến bộ rõ rệt nhất trong tất cả các 
SV tham dự. Để hiểu rõ hơn về tính hiệu quả 
cũng như thực tiễn tình hình khóa học, phần 4 
tiếp theo sẽ khái quát về thực trạng người học 
trước khi tham gia khóa học.
4. Thực trạng người học trước khi tham gia 
khóa học
 Ở phần phân tích thực trạng, thực tiễn 
tình hình người học trước khi tham gia khóa 
học, nội dung sẽ được trình bày theo các từ 
khóa như sau: Năng lực người học, nguyện 
vọng người học, cơ hội tiếp xúc với người 
Nhật, thời gian học tiếng Nhật.
4.1. Năng lực người học
 Như đã trình bày ở mục 3, năng lực người 
học trong nghiên cứu này được các giảng viên 
người Nhật tiến hành đánh giá bằng một bài 
kiểm tra phỏng vấn trực tuyến thông qua phần 
mềm trực tuyến Skype. Người tiến hành phỏng 
vấn trực tuyến là chuyên gia về giáo dục tiếng 
Nhật của Benesse, phụ trách các chương trình 
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo tiếng Nhật, 
thiết kế chương trình học và giảng dạy tiếng 
Nhật8. Chủ đề của phỏng vấn xoay quanh nhà 
trường, học tiếng Nhật cũng như mong muốn 
của SV với khóa học. Thời gian phỏng vấn với 
mỗi SV là 15 phút và tiến hành hai lượt, với 
hai người hỏi khác nhau. Cụ thể như sau: 
Bảng 3. Kết quả kiểm tra năng lực tiếng Nhật trước khóa học91
Số thứ tự
Hội thoại Nghe Ngữ pháp Viết Tổng điểm
40 15 15 30 100
VN 01 15 5 10.5 24 54.5
VN 02 28 5 10.5 30 73.5
VN 03 19.5 5 12 21.5 58
VN 04 34.5 5 13 30 82.5
VN 05 26 0 12 12 50
VN 06 30 10 13.5 12 65.5
Bình quân 25.5 5.0 11.9 21.5 63.9
Tỉ lệ 63.7% 33.3% 79.3% 71.6% 61.9%
8. Theo chia sẻ từ phía cơ quan giảng dạy Benesse.
9. Kết quả kiểm tra này do các giảng viên của cơ quan đào tạo trực tuyến Nhật Bản tiến hành với toàn bộ SV lớp CLC QH 
2018 của Trường ĐHNN – ĐHQGHN.Nội dung phỏng vấn dựa trên cơ sở năng lực từng người học cung cấp ở bảng 2.
185Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
Số liệu ở Bảng 3 cho thấy người học được 
kiểm tra 4 kỹ năng trước khi tham gia khóa học 
là nghe, nói, đọc, viết. Điểm cho kỹ năng hội 
thoại là 40, kỹ năng nghe là 15, kỹ năng ngữ 
pháp là 15, và viết là 30. Tổng điểm 4 kỹ năng 
là 100. Với sự phân bố điểm số này, có thể thấy 
cơ quan giảng dạy coi trọng kỹ năng giao tiếp, 
hội thoại của người học khi cho số điểm của 
hội thoại là cao nhất với 40 điểm. Nội dung 
của bài kiểm tra các kỹ năng dựa trên năng lực 
tiếng Nhật mà SV cung cấp ở Bảng 2. Bài kiểm 
tra theo hình thức trắc nghiệm trực tiếp trên hệ 
thống trực tuyến với thời gian cho mỗi kỹ năng 
nghe, ngữ pháp, hội thoại là 15 phút. Riêng bài 
viết làm theo hình thức tự luận với chủ đề liên 
quan tới mong muốn, kỳ vọng của người học ở 
khóa học trực tuyến. 
 Theo kết quả ở Bảng 3, nhìn chung khả 
năng ngữ pháp và viết của các SV tương đối 
khả quan. Cụ thể là tỉ lệ hoàn thành bài ngữ 
pháp là 79.3%, tỉ lệ hoàn thành bài viết cũng 
là 71.6%. Ngược lại, tỉ lệ hoàn thành của bài 
hội thoại là 63.7% và nghe là 33.3%, thấp 
hơn nhiều so với kỹ năng viết và ngữ pháp. 
Kết quả này cũng cho thấy dù SV đã đạt được 
trình độ tiếng Nhật nhất định (Bảng 2) nhưng 
năng lực giao tiếp, trao đổi của SV còn hạn 
chế. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy sự không 
đồng đều về lực học giữa các cá nhân. Điều 
này thường ảnh hưởng tới chất lượng của một 
lớp học do thiếu sự đồng nhất, dẫn tới sự lệch 
pha trong việc truyền tải của người dạy và tiếp 
nhận kiến thức của người học. Tuy nhiên, ở 
lớp học trực tiếp hiện nay, việc bố trí một lớp 
học tương ứng với từng trình độ người học là 
một khó khăn. Và điều này có thể khắc phục 
bằng cách giảng dạy trực tuyến. 
 Khi được hỏi về mức độ tự tin trong quá 
trình sử dụng tiếng Nhật, rất ít SV khẳng định 
mình có thể tự tin trong quá trình giao tiếp, 
cũng như trong việc đọc hay viết, thậm chí cả 
vấn đề từ vựng. Kết quả này thể hiện ở Biểu 
đồ 1 dưới đây. Biểu đồ cho thấy mặc dù là lớp 
học chất lượng cao, và là các SV đã có trình 
độ tiếng Nhật nhất định trước khi vào đại học, 
nhưng đa số SV được hỏi đều không có tự tin 
hoặc ít tự tin khi được hỏi về khả năng giao 
tiếp. Cụ thể, số SV không tự tin trong giao 
tiếp hội thoại với người Nhật là 46.2%, 38.5 
% không xác định được rõ là mình có thể giao 
tiếp tự tin hay không, và chỉ có 15.4% số SV 
trả lời rằng có chút tự tin khi sử dụng bằng 
tiếng Nhật. Kết quả này một lần nữa phản ánh 
rằng kỹ năng hội thoại là một trong những kỹ 
năng còn yếu với nhiều SV học tiếng Nhật 
và là điểm mà giáo dục tiếng Nhật cần khắc 
phục trong thời gian tới đây. Hơn nữa, khi đối 
chiếu với năng lực tiếng Nhật mà người học 
cung cấp ở Bảng 2 trên, trừ trường hợp VN05 
mới có chứng chỉ N3 về tiếng Nhật, còn lại 5 
SV đều đã có chứng chỉ N2, thì thấy rằng dù 
các SV đã có chứng chỉ tiếng Nhật cần thiết 
ở thời điểm đầu năm thứ 2 đại học, năng lực 
giao tiếp chưa phản ánh được trình độ mà các 
chứng chỉ yêu cầu10. Điều này cũng củng cố 
rằng, cần đẩy mạnh việc kỹ năng nghe nói, kỹ 
năng hội thoại của người học. 
10. Tham khảo năng lực tiếng Nhật chuẩn JF tương ứng 
với các tiêu chí của CEFR: https://jfstandard.jp/pdf/
whole_standard.pdf,và các trình độ tương ứng của các 
bậc năng lực của kỳ thi chứng chỉ tiếng Nhật N5~N1: 
https://www.jlpt.jp/about/levelsummary.html.
Biểu đồ 1. Mức độ tự tin của người học khi 
sử dụng tiếng Nhật
186 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
4.2. Nguyện vọng của người học
 Việc tìm hiểu nguyện vọng, cũng như 
mục đích của người học tiếng Nhật sau khi ra 
trường nhằm triển khai một nội dung dạy phù 
hợp cho SV, cũng như đáp ứng nhu cầu học 
tiếng Nhật với từng đối tượng. Với câu hỏi 
phỏng vấn là “Hãy cho biết kế hoạch sau khi 
tốt nghiệp đại học của bạn.”, kết quả cụ thể 
như Biểu đồ 2.
Biểu đồ 2. Nguyện vọng người học sau 
tốt nghiệp
 Biểu đồ 2 cho thấy mục đích học tiếng 
Nhật sau khi ra trường của nhiều SV là tới Nhật 
Bản làm việc (38.5%), tiếp đến là làm việc 
cho công ty Nhật Bản tại Việt Nam (30.4%). 
Số SV có nguyện vọng sử dụng tiếng Nhật 
cho công việc tại Việt Nam cũng là 23.1%, 
và chỉ có ít SV có nguyện vọng đi du học tại 
Nhật Bản (8.0 %). Những thông số này chứng 
tỏ mục đích lớn nhất của người học là sử dụng 
tiếng Nhật trong công việc dù ở Nhật Bản hay 
ở Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với 
việc người học cần có khả năng giao tiếp, hiểu 
biết văn hóa cũng như trao đổi, xây dựng các 
mối quan hệ. Việc học với giảng viên người 
Nhật cũng có chung mục tiêu là giúp SV nắm 
bắt được các kỹ năng giao tiếp cũng như nâng 
cao tự tin khi sử dụng tiếng Nhật với người 
Nhật trong tình huống thực tế. 
4.3. Cơ hội tiếp xúc với người Nhật Bản
Việc học ngoại ngữ không gì tốt hơn là 
học tại môi trường bản địa và được thực hành 
với người bản ngữ. Tuy nhiên, điều này vốn 
khó thực hiện vì không phải ai cũng có điều 
kiện đi du học ở nước ngoài. Việc học ngoại 
ngữ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế vì cơ 
hội tiếp xúc với giáo viên bản ngữ còn ít, SV 
cũng chưa có điều kiện đi trao đổi, thực tế ở 
môi trường ngôn ngữ mình học. Tuy nhiên, với 
SV của một cơ sở đào tạo ngoại ngữ hàng đầu 
Việt Nam là KNN&VNNB – Trường ĐHNN, 
cơ hội tiếp xúc với người bản ngữ, mà cụ thể 
là người Nhật được thể hiện ở Biểu đồ 3. 
Biểu đồ 3. Cơ hội tiếp xúc với người Nhật
Nhìn vào Biểu đồ 3, ta có thể thấy rằng cơ 
hội được tiếp xúc với người bản ngữ của SV 
KNN&VHNB – ĐHNN là không ít. Hơn 70% 
số người được hỏi trả lời rằng có gặp gỡ với 
người Nhật hàng tuần từ 1 tới 2 lần. Tuy nhiên, 
theo các SV, đây là những giờ dạy trên lớp của 
giảng viên người Nhật Bản, không phải là giao 
tiếp thường nhật. Ngoài ra, giờ học của các 
thầy cô người Nhật cũng không hoàn toàn là 
giờ hội thoại, có thể là giờ học chữ Hán hoặc kỹ 
năng viết. Vì vậy, không có nghĩa giờ học này 
là dành cho việc phát triển kỹ năng hội thoại. 
4.4. Thời gian học tiếng Nhật của SV
 Theo khảo sát về thời gian học tiếng Nhật 
của SV, hầu hết các SV đã có thời gian học 
tiếng Nhật nhất định trước khi vào đại học. 
Phần lớn trong số này được học ở các trường 
cấp 2, hoặc cấp 3 có đào tạo tiếng Nhật với 
thời gian học là từ 3 đến 5 năm. Ngoài ra, theo 
các SV, trong thời gian học tiếng Nhật ở cấp 3 
187Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
cũng có thời gian đi học thêm ở các trung tâm 
tiếng Nhật, hoặc học luyện thi để có chứng 
chỉ tiếng Nhật. Những đặc điểm này cho thấy 
việc học ngoại ngữ chỉ ở trong các trường học 
chính quy còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của 
người học.
4.5. Mục đích tham gia khóa học hội thoại 
trực tuyến

File đính kèm:

  • pdfthu_nghiem_mo_hinh_giang_day_tieng_nhat_hoi_thoai_truc_tuyen.pdf