Thành tựu nghiên cứu Hán ngữ dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ học phương Tây
Từ khi cuốn ngữ pháp Hán ngữ đầu tiên có tên “Mã thị văn thông” được xuất bản, lĩnh vực nghiên
cứu Hán ngữ ở Trung Quốc bắt đầu có sự chuyển mình mới, liên hệ chặt chẽ hơn với các học
thuyết ngôn ngữ phương Tây. Thông qua việc tổng kết các thành tựu và hạn chế của Hán ngữ học
từ cuối thế kỷ 19, có thể hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa lĩnh vực nghiên cứu này với ngôn ngữ
học phương Tây, đồng thời có thể nắm bắt được khuynh hướng phát triển của Hán ngữ học đương
đại ở Trung Quốc.
Từ khoá: nghiên cứu ngữ pháp, ngôn ngữ học phương Tây, tiếng Hán, thành tựu.
khẩu ngữ tiếng Hán” (A grammar of spoken chinese) của Triệu Nguyên Nhậm được xuất bản năm 1968 bằng tiếng Anh, sau đó được Lã Thúc Tương dịch ra tiếng Hán, bản dịch được xuất bản năm 1979 (hình 8). Tiếp đến là cuốn “Luận nghĩa ngữ pháp” (语法讲义, hình 9) của Chu Đức Hy xuất bản năm 1982, cũng là một trong những thành tựu quan trọng của giai đoạn này. 4. NGÔN NGỮ HỌC TẠO SINH VỚI HÁN NGỮ HỌC “Ngôn ngữ học tạo sinh” (generative linguistics), do giáo sư ngôn ngữ học người Mỹ Chomsky dày công xây dựng. Lý thuyết ngôn ngữ này được xem là một trong những đóng góp quan trọng nhất đối với ngành lý thuyết ngôn ngữ trong thế kỉ 20. Ngôn ngữ học tạo sinh chú trọng nghiên cứu đặc điểm chung của ngôn ngữ nhân loại; coi ngôn ngữ là một hệ thống những quy tắc bẩm sinh, khi thụ đắc tiếng mẹ đẻ, trẻ con thông qua so sánh bản ngữ với hệ thống ngôn ngữ bẩm sinh, từ đó biến đổi ngữ pháp của mình. Ngôn ngữ học tạo sinh quan tâm đến đặc trưng tâm sinh lý và năng lực ngôn ngữ của cá thể, đây cũng là bước tiến lớn so với ngôn ngữ học cấu trúc. Trên cơ sở lý luận của ngôn ngữ học tạo sinh, “ngữ pháp tạo sinh” (còn được gọi là “ngữ pháp hình thức”) đã được xây dựng, lý thuyết ngữ pháp này lấy quy luật kết cấu và hình thức hoá ngữ pháp làm mục tiêu nghiên cứu. Ngữ pháp hình thức từ khi ra đời đến nay luôn là khuynh hướng nghiên cứu ngữ pháp lớn ở Mỹ, nhưng ở Trung Quốc thì nó không có được địa vị như vậy, thường bị ví như “sấm đánh to, mưa rơi nhỏ”. Điều này cũng có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân chính phải kể đến là Chomsky không ngừng sửa đổi, hoàn thiện lý luận của mình, do vậy nếu như không có vốn kiến thức về logic toán học và triết học ngôn ngữ, thì khó có thể nắm được những điều chỉnh đó. Thao tác lý thuyết của ngữ pháp tạo sinh được suy luận trên những công thức toán học và ứng dụng của nó là những thứ tương đối lạ lẫm đối với đa số giới Hán ngữ học ở Trung Quốc. Do vậy, chủ lực nghiên cứu ngữ pháp hình thức của Trung Quốc cho tới nay vẫn là các học giả đang học tập, nghiên cứu ở ngoài Trung Quốc đại lục, như ở Mỹ và Đài Loan. Một số học giả có thành tựu nổi bật ở lĩnh vực nghiên cứu này là Hoàng Chính Đức (黄正德, Đại học Harvard – Mỹ) với tác phẩm “Ngữ pháp tạo sinh tiếng Hán – quan hệ logic và lý thuyết ngữ pháp trong tiếng Hán” (汉语生成语法: 汉语中的逻辑关系及 语法理论). Học giả Đài Loan có ảnh hưởng ở mảng này là Thang Đình Trì (汤廷池, Đại học sư phạm Đài Loan). Tác phẩm “Nghiên cứu ngữ pháp biến hình tiếng Trung” (国语变形语法研究) của học giả này là cuốn sách đầu tiên vận dụng lý thuyết ngữ pháp tạo sinh để phân tích ngữ pháp tiếng Hán. 5. NGÔN NGỮ HỌC CHỨC NĂNG VỚI HÁN NGỮ HỌC “Ngôn ngữ học chức năng” (system-functional linguistics) do nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Anh là Halliday sáng lập. Lý thuyết ngôn ngữ này coi ngôn ngữ là một công cụ dùng để thực hiện những chức năng khác nhau trong tương tác xã hội, theo đó nó không chỉ nghiên cứu hình thức ngôn ngữ mà còn nghiên cứu chức năng của ngôn ngữ trong đời sống xã hội. Ngôn ngữ học chức năng đặc biệt coi trọng và tập trung đi sâu nghiên cứu, giải thích các vấn đề có liên quan đến chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Ở Việt Nam chúng ta, học giả có nhiều đóng góp nổi bật ở mảng ngôn ngữ học chức năng là Cao Xuân Hạo, với tác phẩm tiêu biểu là “Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng”. Ngôn ngữ học chức năng cùng với “ngữ pháp chức năng” là hướng tiếp cận, nghiên cứu tiếng Hán thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả trong hơn 20 năm trở lại đây. Các học giả Trung Quốc cũng đã có sự tiếp nhận, vận dụng tương đối linh hoạt lý thuyết ngôn ngữ này, từ đó gặt hái được một số thành tựu nhất định. Đặc biệt là từ thập niên 90 của thế kỷ 20, trong 15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v giới Hán ngữ học đã hình thành trào lưu nghiên cứu Ngữ pháp chức năng tiếng Hán. Một số học giả tiên phong ở lĩnh vực này là Vương Phúc Tường (王福 祥) với cuốn “Bước đầu nghiên cứu ngôn ngữ lời nói tiếng Hán” (汉语话语语言学初探,1989), Trương Bá Giang, Phương Mai (张伯江, 方梅) với cuốn “Nghiên cứu ngữ pháp chức năng tiếng Hán” (汉语功 能语法研究,1996). Thành tựu nghiên cứu ngữ pháp học chức năng tiếng Hán chủ yếu tập trung trên các mảng: nghiên cứu chủ vị và chủ đề, tiêu điểm và tiền giả định, nghiên cứu tính cập vật, phạm trù thay thế, tỉnh lược và hàm ẩn, ngữ cảnh và tình thái. Có thể thấy, ngữ pháp chức năng đang trở thành khuynh hướng nghiên cứu có sức hút lớn trong giới Hán ngữ, tuy nhiên, cho đến hiện tại, nó cũng mới chỉ đạt được những thành tựu nghiên cứu bước đầu và còn tương đối tản mát, chưa thật sự có nhiều công trình nghiên cứu mang tính hệ thống. 6. HÁN NGỮ HỌC VỚI XU THẾ ĐA HƯỚNG VÀ LIÊN NGÀNH Năm 1985, hai học giả Hồ Dục Thụ, Phạm Hiểu có bài báo khoa học với nhan đề “Bàn về ba bình diện của tiếng Hán” (试论语法研究的三个平面) đã đề cập tới vấn đề là làm sao vừa tách bạch rõ ràng vừa có thể kết hợp ba bình diện cú pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng trong phân tích ngữ pháp tiếng Hán. Khái niệm “Ba bình diện” trong ngữ pháp học, thực chất không phải là lý thuyết hoàn toàn mới mà nó có sự kế thừa lý thuyết ngôn ngữ học phương Tây, đặc biệt là các quan điểm của thuyết tín hiệu học. Tín hiệu học trước đó cũng đã đề cập đến các phương diện cú pháp (syntactics) - nghiên cứu các kí hiệu trong những mối quan hệ kết hợp với các kí hiệu khác, phương diện ngữ nghĩa (semantics) - nghiên cứu kí hiệu trong những mối quan hệ với các sự vật bên ngoài hệ thống kí hiệu; phương diện pháp dụng (pragmatics) - nghiên cứu các kí hiệu trong những mối quan hệ với người sử dụng nó (theo Nguyễn Thiện Giáp). Lý thuyết ba bình diện ngữ pháp được sử dụng thịnh hành trong nghiên cứu ngữ pháp Hán ngữ ở thập niên 80-90 thế kỷ 20. Việc xác định hướng tiếp cận và xây dựng hệ thống lý thuyết mới cho tiếng Hán là điều mà các nhà Hán ngữ học đang quan tâm. Ngày nay, khi mà ngôn ngữ học phương Tây xuất hiện nhiều khuynh hướng nghiên cứu mới như tâm lý học ngôn ngữ (psycholinguistics), ngôn ngữ học khu vực (areal linguistics), ngôn ngữ học thần kinh (neurolinguistics), ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics), ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics), các lý thuyết này cũng nhanh chóng được giới thiệu tại Trung Quốc, từ đó làm phong phú hơn về khuynh hướng nghiên cứu cho Hán ngữ học. Đặc biệt là giới ngôn ngữ học Trung Quốc đang cố gắng đưa ra hệ thống lý thuyết ngôn ngữ mới do chính họ xây dựng, chứ không phải vay mượn từ phương Tây. Mặc dù điều này tới nay vẫn chưa thành hiện thực và không dễ thực hiện, nhưng nó cũng phần nào cho thấy quyết tâm của họ trong việc cố gắng bắt kịp sự phát triển của ngôn ngữ học phương Tây. Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh về hướng tiếp cận, nghiên cứu Hán ngữ những năm gần đây vẫn là sự tiếp nối những thành tựu của các giai đoạn trước, trong đó, các khuynh hướng nghiên cứu mới như ngữ pháp chức năng, ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội, tâm lý học ngôn ngữ, ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học ứng dụng thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu hơn. Hướng nghiên cứu liên ngành đang ngày càng được chú trọng trong nghiên cứu Hán ngữ, bởi lẽ nếu nghiên cứu tiếng Hán thuần tuý dưới góc độ ngôn ngữ hoặc theo các phương pháp truyền thống thì còn nhiều vấn đề chưa được sáng tỏ, nhiều hiện tượng ngữ pháp khó có thể tìm ra được lời giải đáp phù hợp. 7. KẾT LUẬN Việc nắm bắt lịch sử phát triển và khuynh hướng nghiên cứu của Hán ngữ học có cả ý nghĩa về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Đối với bộ môn Lý thuyết tiếng Hán, việc cung cấp một số kiến thức có chắt lọc về các giai đoạn phát triển, những công trình nghiên cứu ngôn ngữ Hán tiêu biểu sẽ giúp người học hình thành cái nhìn tổng quan về Hán ngữ học, đồng thời khơi gợi hứng thú học tập và đam mê nghiên cứu khoa học ngôn ngữ cho người học. Những kiến thức này nếu được giới thiệu ở mức độ phù hợp còn có thể góp phần giúp cho giờ giảng môn Lý thuyết tiếng bớt đơn điệu hơn. Bởi lẽ, môn Lý thuyết tiếng là môn học nặng về 16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ ACHIEVEMENT OF CHINESE STUDY UNDER THE IMPACT OF THE WESTERN LINGUISTICS BUI HUY CUONG Abstract: The first published book about a systematic study of Chinese grammar was “Ma shi wen thong”. Since then, the field of Chinese studies in China has begun to transform itself, closely linked to Western linguistic theories. By reviewing the achievements and limitations of the Chinese language since the end of the 19th century, we can have better understanding about the relationship of Chinese study and Western linguistics as well as catch the current trend of developing Chinese language in China. Keywords: grammar studies, Western linguistics, Chinese, achievement. Received: 03/7/2017; Revised: 01/8/2017; Accepted for publication: 30/8/2017 lý thuyết, tương đối khô khan so với các môn thực hành tiếng. Đối với học viên cao học ngành Ngôn ngữ tiếng Trung Quốc thì yêu cầu đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử phát triển Hán ngữ học càng phải đặt ra cao hơn. Trên phương diện loại hình ngôn ngữ học, tiếng Việt và tiếng Hán cùng thuộc ngôn ngữ đơn lập, không có biến đổi nổi bật về mặt hình thái như các ngôn ngữ biến hình, ý nghĩa câu chủ yếu dựa vào vai trò của cú thức và hư từ, đồng thời hai ngôn ngữ cũng trải qua quá trình tiếp xúc lâu dài. Do vậy, đi sâu nghiên cứu thành tựu, hạn chế của Hán ngữ học, đặc biệt là Hán ngữ học đương đại có thể bổ sung thêm góc nhìn mới và một số gợi mở hữu ích cho lĩnh vực nghiên cứu Việt ngữ học của chúng ta./. Tài liệu tham khảo: 1. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt- Sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 2. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 3. 高名凯 (2011), 汉语语法论[M].北京: 商务 印书馆. 4. 范晓 (2001) 汉语语法研究的历史、现状和 展望[J].汉语学习(1). 5. 胡裕树, 范晓 (1985) 试论语法研究的三个 平面[J].新疆师范大学学报(2).
File đính kèm:
- 90_2702_2137275.pdf