Thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh - Những điều lý thú và công việc chuyển ngữ của chúng ta

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế -

quốc tế và cuộc diễn biến sôi động trên

toàn cầu của nền công nghiệp 4.0, lời ăn

tiếng nói, thành ngữ, tục ngữ, ý đẹp lời

hay của tiếng Anh thỏa sức len lỏi vào

đời sống dân gian Việt Nam, góp thêm sự

phong phú, tinh tế và thăng hoa vẻ giàu

đẹp của tiếng Việt. Bài này nhằm hướng

người đọc cùng song hành đi tìm sự lý thú

của tiếng Anh và nét hào hoa, phong nhã

của tiếng Việt.

 Tính đa dạng của tiếng Anh

Từ những năm 1600 sự xâm chiếm

phía Bắc Mỹ làm thuộc địa của Anh đã

dẫn đến sự hình thành nên tiếng Anh Mỹ

rất đặc trưng. Tiếng Anh hiện đại (từ

năm 1800 đến nay) có thêm nhiều từ mới

hơn do hai nguyên nhân chủ yếu: thứ

nhất, cuộc cách mạng công nghiệp hình

thành nên cần nhiều từ mới, và, thứ hai,

đế quốc Anh có nhiều thuộc địa (¼ diện

tích trái đất), nên tiếng Anh phải nhận

thêm nhiều từ mới qua các nước thu

pdf6 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 623 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh - Những điều lý thú và công việc chuyển ngữ của chúng ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
77Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
* Phó Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ Anh,
 Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế - 
quốc tế và cuộc diễn biến sôi động trên 
toàn cầu của nền công nghiệp 4.0, lời ăn 
tiếng nói, thành ngữ, tục ngữ, ý đẹp lời 
hay của tiếng Anh thỏa sức len lỏi vào 
đời sống dân gian Việt Nam, góp thêm sự 
phong phú, tinh tế và thăng hoa vẻ giàu 
đẹp của tiếng Việt. Bài này nhằm hướng 
người đọc cùng song hành đi tìm sự lý thú 
của tiếng Anh và nét hào hoa, phong nhã 
của tiếng Việt.
1. Tính đa dạng của tiếng Anh
Từ những năm 1600 sự xâm chiếm 
phía Bắc Mỹ làm thuộc địa của Anh đã 
dẫn đến sự hình thành nên tiếng Anh Mỹ 
rất đặc trưng. Tiếng Anh hiện đại (từ 
năm 1800 đến nay) có thêm nhiều từ mới 
hơn do hai nguyên nhân chủ yếu: thứ 
nhất, cuộc cách mạng công nghiệp hình 
thành nên cần nhiều từ mới, và, thứ hai, 
đế quốc Anh có nhiều thuộc địa (¼ diện 
tích trái đất), nên tiếng Anh phải nhận 
thêm nhiều từ mới qua các nước thuộc 
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG ANH - NHỮNG ĐIỀU LÝ THÚ
VÀ CÔNG VIỆC CHUYỂN NGỮ CỦA CHÚNG TA
GVC. Trần Anh Thơ *
Tóm tắt: Thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh là thành phần quan trọng thường gặp 
trong cuộc sống. Chúng được tạo nên bởi các cụm từ, nói lên một ý nghĩa, giải thích 
bằng nghĩa của các cụm từ có mặt trong mỗi thành ngữ, tục ngữ đó. Tục ngữ là một 
câu nói súc tích, thường được biết đến là câu nói của dân gian, trong đó có sự khôn 
ngoan, xác thực, đạo đức và các quan điểm truyền thống được thể hiện bằng hình thức 
ẩn dụ, dễ ghi nhớ và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người học tiếng Anh thường 
lý thú với việc chuyển ngữ để hiểu rõ nền văn hóa của một dân tộc. Trong bài viết này 
chúng tôi sẽ giới thiệu và phân tích một số thành ngữ và tục ngữ, từ đó hình thành cách 
hiểu và chuyển ngữ cho phù hợp hay thuần Việt.
Từ khóa: Thành ngữ, tục ngữ Anh và Việt, dịch và phương pháp dịch. 
Abstract: English idioms and proverbs are an important part of everyday English. 
They are formed by a group of words, expressing the meaning and usage of each 
idiom. A proverb is a short, generally known sentence of the folk which contains 
wisdom, truth, morals, and traditional views in a phetaphorical, memorizable form 
and which is handed down from generation after another. Learning English idioms 
and proverbs is fun while translating from English idioms or proverbs into Vietnamese 
version to be aware of the British culture. In this paper we will introduce and analyze 
a number of English-Vietnamese idioms and proverbs, thereby to form interpretation 
and translation to English and Vietnamese proverbs accordingly.
Key words: English idioms and proverbs, Vietnamese idioms and proverbs, 
interpretation and translation methods.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
78Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
địa. Một số cách diễn đạt được Châu Mỹ 
hóa đã tồn tại trong thuộc địa của Anh, 
ví dụ như thay trash cho rubbish, loan 
thay cho lend và thay fall cho autumn, 
v.v. Còn nữa, nhiều từ được Mỹ hóa, như 
trong thành ngữ carry torch (quan tâm 
đến ai), carry weigh (có ảnh hưởng), go 
with the flow (đi cùng/theo dòng thủy 
triều/gió chiều nào, che chiều ấy) và 
bundle of energy (sự thăng hoa về trí tuệ/
giàu sức sáng tạo), v.v.
Để hiểu được tính đa dạng của tiếng 
Anh và biết chuyển di đạt, tín và nhã sang 
ngôn ngữ đích, ngôn bản dịch, người dạy 
và người dịch phải có vốn kiến văn – chất 
lượng văn hóa nền của đời sống thực 
tiễn. Chính điều này làm cho tiếng mẹ đẻ 
– ngôn ngữ thứ nhất – thêm trong sáng, 
phong phú, tinh tế, pha chút thi vị của một 
dân tộc “ra ngõ gặp nhà thơ”.
2. Sắc màu tiếng Anh và công việc 
chuyển ngữ 
Trong chức năng xã hội của tiếng 
Việt, sang thế kỷ XX, như nhận xét của 
nhà ngôn ngữ học Đinh Văn Đức, sự 
tăng trưởng của ngôn ngữ báo chí, sự lớn 
mạnh của phóng sự văn đàn, thi văn, chức 
năng truyền thông được mở rộng, tiếng 
Việt ngày càng được hoàn thiện, làm tiền 
đề kiến tạo một nền văn xuôi mới trong 
sáng tác nghệ thuật và lời ăn tiếng nói của 
nhân gian. Vì lẽ đó mà ngôn ngữ nguồn 
tiếng Anh được dịch chuyển rất tinh tế, 
giàu cảm xúc, đa sắc màu như các câu 
dẫn dưới đây: 
Trong giao tiếp, ta gặp các ngữ đoạn 
“finger in the pie”, “a hold face on”, “top 
of the tree”, “a chip of the old block”, “ill-
starred”, “about-face”, “bull and bear”, 
v.v. Ta không dại gì mà chuyển dịch từ 
đổi từ. Để dễ nghe, dễ hiểu, phải hiểu ngữ 
pháp là công cụ để diễn đạt những gì đang 
biến đổi trong ngôn ngữ; [1].
Để chuyển di đạt, tín, nhã, câu phải 
được đặt trong ngữ cảnh cụ thể. Chuyển 
di từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ 
đích phải diễn đạt có tính phân tích và 
tính logic. Giải thích các biến đổi ngữ 
pháp giữa hai ngôn ngữ Anh - Việt là do 
sự tiếp xúc giao thoa văn hóa và cũng 
“xuất phát từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ 
với tư duy bản ngữ chứ không chỉ đơn 
thuần từ phương diện ngữ pháp” [1]. Từ 
cứ luận trên, suy ra, có thể hiểu là người 
đọc hay người dịch đã từng bước quen 
với lối tư duy mới, với luận lý chặt chẽ 
về ngữ nghĩa học, về ngữ dụng học và 
ngôn ngữ học so sánh và đối chiểu để 
chuyển dịch cho thông thoáng, cho thấu 
lý, đạt tình.
Đó là chuyện bếp núc của người dạy 
ngôn ngữ thứ hai. Người dạy hay người 
dịch phải biết cách thức phản ánh hiện 
thực một cách sinh động và tinh tế qua 
ngôn từ và cấu trúc trong ngữ cảnh cụ thể. 
Nêu bật tư tưởng chủ đề là cốt lõi. Chưa 
hết, còn phải thanh và nhã. Nói khác đi, 
theo cách nói của nhà ngôn ngữ học Bùi 
Minh Toán, “Sự trao đổi kinh nghiệm cá 
nhân, sự phối hợp giữa các hành dộng có 
thể thực hiện được là nhờ ngôn ngữ, nó 
chính là công cụ cho phép “rót” các kết 
quả của hoạt động tư duy cá nhân vào các 
“khuôn” có giá trị chung” [5].
3. Dẫn chứng minh họa 
Có thể hiểu rằng trong thế kỷ XXI 
này, sự tăng trưởng của ngôn ngữ báo chí 
với đủ thể loại cùng với sự lớn mạnh của 
phóng sự - điều tra làm cho việc sử dụng 
tiếng Anh ngày càng đa diện, đa màu sắc 
trong một thế giới phẳng. Cũng vì thế 
mà tiếng Việt cũng giàu có thêm vẻ đẹp, 
phong lưu hơn về lời ăn tiếng nói, về ý 
đẹp lời hay, góp phần tạo nên sự trong 
sáng của tiếng Việt trong bối cảnh ngày 
càng đa dạng về giao thoa văn hóa. 
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
79Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
“To have a finger in the pie” không là 
chấm mút/dây máu ăn phần, mà là “tham 
gia vào hoạt động”, “có mặt khắp chốn cùng 
nơi”. – “To put a hold face on” dùng trong 
văn tự hành chính hay trong các cuộc thương 
thuyết về đầu tư, kinh doanh, được hiểu là 
“cải tổ/khôi phục/đủ sức lấy lại/làm lại”. – 
“To get to the top of the tree” dùng để khen 
ngợi và đánh giá về ai, hoặc về một điều 
gì, có nghĩa là: “đạt tới sự tinh thông trong 
nghề” hay “làm ăn phát tài, phát lộc”. – “To 
show one’s flag” đặt trong ngữ cảnh gây 
cấn, tưởng không có cách giải quyết hoặc ở 
trong thế áp đảo đối phương, đối tác, được 
hiểu là “trịnh thượng/diễu võ dương oai/tỏ 
rõ ta đây trước bàn dân thiên hạ”. – “To twig 
one’s game” thường thấy dùng trong các trò 
chơi, trong kinh doanh - kinh tế, đàm phán, 
thương thuyết,, được hiểu là “biết tỏng 
ngón nghề/các chiêu của ai”. – “To be out 
up about”, cụm từ, trong các bài viết về 
bức xúc, hiểm họa của môi trường và những 
cảnh đời quẫn bách của dân tị nạn di cư sang 
Châu Âu những năm gần nay, có nghĩa là 
“sầu muộn/khốn cùng/hủy diệt tàn khốc”. – 
“To come out at” gặp trong mua bán (How 
much does all this come out at?) với nghĩa: 
“tất cả cái này trị giá bao nhiêu?”. – “Best 
in straight play” xuất hiện trong giao du của 
tuổi teen, nhất là ở các quán trà chanh trên 
đường phố (ví dụ: I like his best in straight 
plays), được hiểu là “tôi thích nhất cách xử 
thế của bạn ấy/anh ấy/cậu ấy”, hoặc: “anh ấy 
biết chơi đẹp”. – “He was born from a big 
potato’s” được hiểu là “anh ta xuất thân từ 
một gia đình có thế lực”, “anh ấy xuất thân 
từ một gia đình tai to mặt lớn”. – “To have a 
crash on someone” thường dùng trong đời 
sống xã hội và phim ảnh diễm tình, có nghĩa 
là “tương tư”.
Để kết lại phần này, tôi muốn thêm một 
câu mà các bạn trẻ hay dùng, đó là “Love 
to death”. Xin tùy các bạn suy tưởng. 
4. Những điều lý thú từ chuyện 
dọn vườn
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển rực rỡ 
sau Công nguyên (tiếng Anh cổ: năm 45-
1100, tiếng Anh trung đại: 1100-1500, tiếng 
Anh cận đại: 1500-1800, tiếng Anh hiện đại: 
1800- đến nay), bắt đầu từ những chuyến du 
cư của ba bộ tộc người Đức-Angles, Saxons 
và Jutes, họ là những người đã xâm chiếm 
nước Anh trong thế kỷ thứ V sau Công 
nguyên, người bản địa Anh lúc đó đang nói 
tiếng Xen-tơ (Celt), bị dồn về phía tây và bắc 
(chủ yếu ở những nơi bây giờ là xứ Wales, 
Scotland và Ireland). Dòng Angles đến từ 
England và ngôn ngữ của họ gọi là Englisc – 
đó là nguồn gốc của từ England và English. 
Đặc biệt từ năm 1600, do Anh xâm chiếm 
Bắc Mỹ làm thuộc địa, đã dẫn đến sự hình 
thành tiếng Anh-Mỹ (American English). 
Và sự vay mượn, tiếp biến như thế làm cho 
tiếng Anh thêm phong phú, đa sắc màu, đầy 
lý thú nhờ sự giao thoa văn hóa giữa các 
chủng tộc từ các thuộc địa của Vương quốc 
Anh – The United Kingdom. Xin dẫn cử sự 
lý thú của tiếng Anh bằng một thành ngữ mà 
hễ ai học tiếng Anh cũng dễ nhận biết ngay 
từ bài đầu tiên: “The sun has never set in the 
United Kingdom” – “Mặt trời không bao giờ 
lặn trên Vương quốc Anh”.
Tiếng Anh cũ và mới 
Tiếng Anh thay đổi đến chóng mặt. 
Theo nhận xét của một người Việt đã sống 
ở Luân Đôn trên 20 năm, thì hàng ngày, hễ 
bước ra khỏi nhà là gặp ngay từ mới. Đó 
là thủ đô của ánh sáng, xứ sở sương mù, 
nơi ở của những con người “chỉ biết có 
mình” (“you are what you think”), không 
muốn ai “xía vào chuyện riêng tư” (“it’s 
none of your business”, “don’t poke your 
nose into my private life”). Tính cách cố 
hữu bám chắc lấy đặc trưng truyền thống 
là rõ nét nhất (“a wise fish swims at the 
bottom” – “cá khôn bơi sâu dưới đáy”). 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
80Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Trong thời đại công nghệ 4.0, từ 
“girl games” không còn nghĩa là “trò 
chơi của các bé gái”, mà là “trò chơi điện 
tử dành riêng cho con gái”. “Come-ons” 
xưa kia có nghĩa là lời tán tỉnh, hẹn hò, 
nhưng nay coi chừng, không khéo bị tố 
là quấy rối tình dục. “It may be morning 
in England - crime down”: ai cũng hiểu 
morning là buổi sáng, nhưng nay một 
hàm ý mới mang nghĩa “buổi bình minh” 
của nước Anh, vì tội phạm giảm đi. Một 
câu khác cũng khá thú vị là “It ‘s high 
noon on America – street and highway”: 
nghĩa cũ là “đỉnh cao”, nhưng khi nói về 
giao thông trên đường phố Hoa Kỳ, “high 
noon” lại mang nghĩa là “đỉnh cao của 
sự hỗn loạn” về giao thông đường phố. 
“Give me five” không có nghĩa là “cho 
xin 5 hào/cắc/đồng”, mà phải hiểu là “tôi 
đồng ý/Ok/thế là được rồi”. “Feel like a 
million” được hiểu là “người sung sướng 
tột độ”. Còn “about-face” xưa thường 
dùng trong quân đội là “đằng trước quay/
đằng sau quay”, nay trong kinh doanh có 
nghĩa là “quay ngoắt 180 độ”, “trở mặt, 
không muốn làm ăn với nhau nũa”.
Trung bình cứ hai tiếng lại có một từ 
mới được thêm vào ngôn ngữ tiếng Anh 
và khoảng 4,000 từ mới được thêm vào từ 
điển tiếng Anh hàng năm. 
Thế đấy, ngôn ngữ là sự phản ánh 
chân thật của đời sống hiện thực, “ở nhiều 
câu, ngoài việc thể hiện nội dung của 
phán đoán, còn bộc lộ rõ cả thái độ, tình 
cảm, cảm xúc con người. Lại có nhiều 
câu ngoài nghĩa hiển ngôn còn ẩn chứa 
một nghĩa hàm ngôn, nghĩa này liên quan 
đến hoàn cảnh giao tiếp cụ thể của câu” 
[5]. Từ cứ liệu này, tôi lại nhớ một câu 
để đời của Shakespear: “To be or not to 
be” đúng trong mọi hoàn cảnh, vì nó là 
chức năng làm chất liệu và phương tiện 
của nghệ thuật văn chương.
5. Cái đẹp của thành ngữ, tục ngữ 
tiếng Anh và sự tinh tế của tiếng Việt
Tôi cho rằng cái đẹp của tiếng Anh, 
tiếng của Shakespear, vốn đã trong sáng, 
rõ ràng, minh tường qua các cấu trúc câu 
đơn dễ hiểu, giàu hình ảnh, ẩn chứa nhiều 
hàm ý trong từng mệnh đề diễn đạt (như 
các thành ngữ, tục ngữ đã dẫn) các sự tình 
của chuyện đời và chuyện người, chuyện 
cỏ cây, hoa lá và cả những nỗi niềm sâu 
nặng, u hoài như trong “Dấu xưa xe ngựa 
hồn thu thảo” của Bà huyện Thanh Quan, 
“Buồn trông cửa biển chiều hôm” của 
Nguyễn Du, “Đường bên cầu cỏ mọc còn 
non”, “Nước trong chảy lòng phiền chẳng 
rửa / Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó khuây” 
của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm. 
Cái tứ đã đẹp, cái tình đã hay, cái ý, cái 
tâm và cái thiện cũng phải biết làm bật 
tung lên sự thanh cao của hàm ý, qua sự 
chế tác của chúng ta. Đó là công việc dịch 
thuật: người nói lại và là người viết lại. 
Ý tại ngôn ngoại là ở chỗ đó. Thật đúng, 
khi chúng ta nhận thức được rằng quan 
hệ giữa ngôn ngữ và tư duy không phải là 
quan hệ đồng nhất. “Sự không đồng nhất 
này thể hiện ở sự không đồng nhất giữa 
các đơn vị tương ứng của hai lĩnh vực: từ 
và khái niệm, câu và phán đoán, “Từ” 
không phải chỉ biểu hiện khái niệm, nội 
dung, ý nghĩa của từ, không chỉ là khái 
niệm, mà còn chứa đựng cả cách nhìn 
nhận, đánh giá, sắc thái tình cảm và thái 
độ của con người” [5]. Ví dụ: “Who 
breaks, pay” – “Bắn súng không nên thì 
phải đến đạn”. “If the cab fits then wear 
it” – “Có tật giật mình”. “You have gone 
too far to draw back” – “Đâm lao phải 
theo lao” hoặc “In for a penny, in for a 
pound” – “Được voi đòi tiên”.
Thành ngữ (phrase) là những cụm từ 
cố định dùng để diễn đạt một khái niệm. 
Ví như trong tiếng Việt: “Ăn sổi ở thì”, 
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
81Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
“Cơm sung cháo giềng”, “Nằm sương gối 
đất”, hay như trong tiếng Anh: “It never 
rains but it pours” (Họa vô đơn chí), “Hang 
in there” (Đừng nản/Đừng từ bỏ), “You 
never know your luck” (Dịp may không 
đến hai lần), “It’s not rocket science” 
(Vấn đề không phức tạp đâu”, “Miss the 
boat” (Chậm quá rồi đấy). Theo các nhà 
từ điển học, có tới 25.000 thành ngữ tiếng 
Anh được sử dụng rất “đắt” trong giao 
tiếp, tức là dùng đúng nơi, đúng chốn, 
đúng ngữ cảnh để làm đẹp thêm sắc màu 
trong giao tiếp, để thể hiện sự tinh tế và 
hào hoa về mặt văn hóa ứng xử. 
Tục ngữ (idiom) là những câu hoàn 
chỉnh, có ý nghĩa trọn vẹn, nói lên hoặc 
một nhận xét tâm lý, hoặc một lời phê 
phán, khen hay chê, hoặc một câu khuyên 
nhủ, hoặc một kinh nghiệm về nhận thức 
tự nhiên hay xã hội. Tục ngữ thường mang 
tính ẩn dụ, như: “Đồng tiền liền khúc ruột”, 
“Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường”, 
“Chết trong còn hơn sống đục”, “Đói cho 
sạch rách cho thơm”, “Gió heo may chuồn 
chuồn bay thì bão”, v.v. [3]. Học giả về tục 
ngữ Archer Taylor nhận xét: “Định nghĩa 
một câu tục ngữ là quá khó thực hiện” và 
“Chúng ta nên hiểu rằng tục ngữ là một 
câu nói tồn tại trong dân gian” [5].
Học tiếng Anh, ta gặp những thành 
ngữ, tục ngữ trong giao tiếp với tần xuất 
cao. Ví dụ: “To fall in with” (đồng ý với), 
“To call forth the best qualities” (đòi hỏi 
ai đó phái phát huy hết phẩm chất tốt 
đẹp), “To pay lip service” (giả vờ chân 
thành), “Long absence, soon forgotten” 
(xa mặt, cách lòng”, “A cat may look 
at a king”, (mèo nhỏ dám ngó mặt vua) 
“Everything comes to him who wait” (ai 
biết chờ, người ấy sẽ được), “Comfort is 
better than pride” (ăn chắc mặc bền), v.v.
Sự có mặt của những thành ngữ 
tiếng Anh cũng góp phần cho sự phong 
phú và tinh tế của tiếng Việt qua chuyển 
ngữ. Người nói phải biết lựa lời mà nói 
và cũng là để nêu cao giá trị của mình về 
chất lượng văn hóa. Xem văn, biết người 
là vậy! Theo từ điển Anh - Việt, “một 
nhóm từ ngữ, khi dùng chung với nhau, 
có nghĩa khác với nghĩa của những từ ngữ 
dùng riêng lẻ”. Thí dụ: “It‘s raining cats 
and dogs”. Nều chuyển ngữ từ-đổi-từ, 
thì là “trời mưa những mèo những chó”. 
Trước sự trạng này, người chuyển ngữ 
cần am hiểu về văn hóa, ngữ nghĩa học và 
ngữ dụng học để làm sáng tỏ tư tưởng chủ 
đề của ngôn bản nguồn. Như vậy là đắc 
thụ ngôn ngữ, phải dịch là: “mưa như trời 
sập/mưa như thác đổ/mưa tầm mưa tã”. 
Rõ ràng là “cú pháp tiếng Việt đã chuyển 
sang một giai đoạn mới thông qua báo 
chí và giao tiếp đời thường Tỷ lệ các câu 
đơn, câu ngắn trong văn bản tăng lên và 
ổn định. Lối diễn đạt biền ngẫu phổ dụng 
trước đó nay được thay bằng lối diễn đạt 
mệnh đề các sự tình trong sáng hơn” [1].
Idiom trong tiếng Anh, qua những ví 
dụ nêu trên, cần phải được nhận biết là “một 
câu nói có nghĩa toàn thể khác với nghĩa 
của những thành phần”. Một minh họa 
khác: “To have your feet on the ground” 
phải được lý giải qua bình diện ngữ cảnh 
văn hóa đời thường từ cấp độ thành phần 
đến cấp độ ngữ cảnh, văn cảnh cụ thể của 
môi trường, hiện trạng, điều kiện sống, 
thời khắc và cảnh đời mà chuyển di sao 
cho hợp cảnh, hợp người. Vì thế, dịch là 
“sáng suốt, biết điều, tinh tế”.
Nói về thành ngữ, tục ngữ, hay câu 
nói dân gian (expression, phrase, idioms, 
common saying, by-word), Nguyễn Văn 
Tạo [8] giải thích là “lời nói đã trở thành 
tục ngữ” (“saying that has become a 
proverb, that has passed into a proverb”). 
Xem như vậy thì dịch “idiom” là “thành 
ngữ” và “proverb” là “tục ngữ” sẽ an toàn 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
82Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
hơn. Ví như tục ngữ “Một miếng khi đói 
bằng một gói khi no” dịch là “a slice of 
bread when hungry is worth a whole loaf 
when full” hay “a piece when hungry is 
worth a whole pie when full”.
Tác giả Lord John Russell giải thích: 
“Proverb, from Latin Proverbium, is the wit 
of one, and the wisdom of many” (tục ngữ, 
có nguồn gốc từ tiếng Latin Proverbium, 
là sự hóm hỉnh của một người và sự thông 
thái của nhiều người). Điều này thật đúng 
trong các tục ngữ tiếng Anh sau: 
Courtesy costs nothing – Lời nói 
chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho 
vừa lòng nhau.; A friend in need is a friend 
indeed – Hoạn nạn mới biết bạn hiền; A 
clean fast is better than a dirty breakfast 
– Đói cho sạch, rách cho thơm; The grass 
always looks greener on the other side of 
the fence – Đứng núi này trông núi nọ; 
Only the wearer knows where the shoes 
pinches – Nằm trong chăn mới biết có 
rận; Every bird loves to hear himself song 
– Mèo khen mèo dài đuôi; All that glitters 
is not gold – Không phải mọi thứ lấp lánh 
đều là vàng; Curses come home to roost – 
Gieo gió, gặt bão.
6. Lời hay ý đẹp trong danh ngôn 
thế giới
Theo Giáo sư Trần Tất Lanh và Hoàng 
Điệp [2], “danh ngôn là những lời nói hay, có 
giá trị triết lý nhân sinh, được người đời ưa 
thích và truyền miệng”. Ví như câu “Beauty 
is the first present Nature, gives to woman, 
and the first it takes away” (De Mere) được 
dịch là “Sắc đẹp là tặng phẩm đầu tiên mà 
tạo hóa ban cho người đàn bà và cũng là 
thứ đầu tiên mà tạo hóa cướp đi” hoặc câu 
“Beauty is truth, truth is beauty” (John 
Keats) dịch là “Cái đẹp là chân lý, chân lý là 
cái đẹp” và câu “A thing of beauty is a joy 
forever” (Charles Reade) – ”Một vật thể đẹp 
là nguồn vui vĩnh cửu”. 
Qua những dẫn chứng trên, chúng ta 
có thể nhận ra một điều là danh ngôn được 
hình thành trong quá trình lao động tác 
động vào thiên nhiên qua các mối quan 
hệ cộng đồng xã hội đã nẩy sinh ra nó. 
Rồi qua các mối quan hệ xã hội ấy và qua 
quan sát tự nhiên, phát hiện các quy luật 
để rồi con người nhận xét , đánh giá nâng 
lên tầm triết lý.
Để minh chứng, tôi xin trích dẫn:
- “What sweetness is left in life if you 
take away friendship” (Cicero) – “Nếu 
không có tình bằng hữu đời còn ý vị gì”.
- “It is a good thing to be rich, and it 
is a good thing to be strong, but it is better 
thing to be beloved of many friends” 
(Euripides) – “Giàu là điều tốt, mạnh là 
điều tốt, nhưng được nhiều bạn yêu mến 
là điều tốt hơn”.
- “Mutual confidence is the pillar of 
friendship” (F.Schiller) – “Ti

File đính kèm:

  • pdfthanh_ngu_tuc_ngu_tieng_anh_nhung_dieu_ly_thu_va_cong_viec_c.pdf
Tài liệu liên quan