Tác động của lớp có sĩ số đông đối với việc dạy tiếng Anh ở trường đại học điện lực
Ở những quốc gia đang phát triển như Việt nam, những lớp học ngoại ngữ
đông học sinh, nhất là ở các trường đại học đã trở thành một điều bình thường hơn là ngoại
lệ đặc biệt. Dường như tất cả giáo viên (GV) dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL) nói
chung và GV EFL ĐHĐL nói riêng đều nhận thấy sĩ số lớp đông chính là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả học tập kém. Trên thực tế, khung thời lượng hạn hẹp
trên lớp số lượng sinh viên (SV) quá đông và sự phân hóa mạnh về trình độ của người học đã
gây trở ngại đến chất lượng học tập. Do vậy việc áp dụng các phương pháp sư phạm, chiến
lược dạy học phù hợp như học tập tích cực sẽ là giải pháp tối ưu cho bài toán nan giải này
31Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion TÁC ĐỘNG CỦA LỚP CÓ SĨ SỐ ĐÔNG ĐỐI VỚI VIỆC DẠY TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC THE IMPACT OF CLASS SIZE ON TEACHING ENGLISH AS A FOREIGN LANGUAGE IN ELECTRIC POWER UNIVERSITY Nguyễn Việt Hà, Trần Thị Thu Hương* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/11/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/5/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/5/2020 Tóm tắt: Ở những quốc gia đang phát triển như Việt nam, những lớp học ngoại ngữ đông học sinh, nhất là ở các trường đại học đã trở thành một điều bình thường hơn là ngoại lệ đặc biệt. Dường như tất cả giáo viên (GV) dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL) nói chung và GV EFL ĐHĐL nói riêng đều nhận thấy sĩ số lớp đông chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả học tập kém. Trên thực tế, khung thời lượng hạn hẹp trên lớp số lượng sinh viên (SV) quá đông và sự phân hóa mạnh về trình độ của người học đã gây trở ngại đến chất lượng học tập. Do vậy việc áp dụng các phương pháp sư phạm, chiến lược dạy học phù hợp như học tập tích cực sẽ là giải pháp tối ưu cho bài toán nan giải này. Từ khóa: Lớp đông, dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ, phương pháp sư phạm, chiến lược dạy học, Đại học Điện lực. Abstract: In the developing countries like Vietnam, overcrowded classes of foreign languages, especially at university level have become a norm rather than an exception. It seems that almost teachers of English as a Foreign Language (EFL) in generally and the ones in Electric Power University in particular, perceive large class size as a major hinder to the effi ciency of students’ achievement. In reality, given time restrain in class, large class and great variety of students serve as impediment for learning outcomes of high quality. Therefore, the employment of proper pedagogical approaches, appropriate teaching strategies would be an optimum solution to the conundrum. Keywords: Overcrowded classes, teaching English as a Foreign Language, pedagogical approaches, teaching strategies, Electric Power University (EPU). * Trường Đại Học Điện Lực Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 67 (5/2020) 31-36 32 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Dạy học tiếng Anh ở bậc đại học Về việc dạy tiếng Anh ở bậc đại học, quyển Chương trình đào tạo Mới có viết “SV cần hiểu đưuợc các chương trình truyền hình thực tế như CNN và các bài xã luận phê bình về các vấn đề chính trị từ báo và tạp chí chính thống của Anh và Mỹ”. Mục tiêu này cùng với nhu cầu thực tế cấp bách của xã hội đòi hỏi việc dạy học không chỉ bó hẹp trong dạy dịch ngữ pháp, đọc hiểu mà còn dạy giao tiếp (CLT) trong đó tập trung nhiều hơn vào thực hành 4 kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết). Đây chính là điểm còn yếu và thiếu ở nhiều trường ĐH ở Việt nam do thời lượng học ít, sĩ số SV quá đông, từ đó đặt dịch ngữ pháp và đọc hiểu làm trọng tâm dạy học mà không chú trọng phần nghe nói. Nhiều quan điểm đều thống nhất rằng, CLC là hình thức tích hợp dạy ngữ pháp và dạy chức năng, trong đó ngữ pháp được vẫn dạy nhưng theo một cách thực tế hơn, đặt các cá nhân vào trong ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Theo tác giả Littlewood (2001) thì một trong những đặc điểm tiêu biểu nhất ở CLT là chú trọng một cách hệ thống tới cả yếu tố cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. 1. 2. Khái niệm về lớp có sĩ số đông (lớp lớn) Một lớp học khoảng 30 SV thường được coi là có sĩ số bình thường, nếu nhiều hơn thì sẽ được hiểu là lớp đông. Nhưng đối với lớp học ngoại ngữ thì chỉ với qui mô trên 20 SV đã được xếp vào nhóm lớp đông. Tuy nhiên không có định nghĩa rõ ràng nào về điều gì tạo thành một lớp lớn (Hayes, 1997). Trong bài báo này, thì một lớp học đông là khi có sĩ số trên 20. Tác giả Sulistoyawati (2012) cho rằng số lượng học viên lý tưởng trong một lớp ở các nước phát triển là từ 20 đến 32. Rõ ràng là các lớp học đông đem đến những thách thức lớn cho GV EFL, làm ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng dạy tiếng Anh cũng như kết quả học tập của SV. 2. Thực trạng việc dạy tiếng Anh cho lớp đông ở trường ĐHĐL Khái quát về đặc điểm dạy học ở trường ĐHĐL Khoa Ngoại Ngữ Trường ĐHĐL có 16 GV tiếng Anh, chủ yếu đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên hệ thống điện cho ngành điện và một số ngành kinh tế khác. Sinh viên năm nhất phải học một năm tiếng Anh tổng quát giáo trình “Life - Vietnam Edition A1-A1” có tích hợp 4 kĩ năng nghe nói đọc viết gồm 11 bài. Các GV của khoa đã quen với việc dạy lớp đông trong nhiều năm qua, đặc biệt ở những năm trước với sĩ số lên tới mức 80-100 SV nên việc dạy và luyện các bài tập ngữ pháp trở thành phương pháp chủ đạo do hầu hết việc kiểm tra tại trường là theo hướng đánh giá kết quả học tập thay vì cải thiện hiệu quả dạy nên việc SV không giao tiếp nghe nói hay viết được cũng là điều khó tránh khỏi. Để tìm hiểu ý kiến và nhận định của GV và SV của các lớp tiếng Anh có sĩ số đông ở ĐHĐL, tác giả đã tiến hành khảo sát 150 SV năm thứ nhất và thứ hai của nhà trường và 16 GV, thời gian khảo sát từ 7/12/2019 đến 25/12/2019 với bảng câu hỏi điều tra dưới đây. Câu hỏi điều tra tác động của việc dạy/học tiếng Tiếng Anh ở lớp đông 33Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion GV dành quá nhiều thời gian ổn định trật tự trên lớp 1 2 3 4 5 GV không giải đáp được hết thắc mắc của SV 1 2 3 4 5 SV mong muốn đến lớp 1 2 3 4 5 Sĩ số lớp lí tưởng cho việc học tiếng Anh 4 kĩ năng 1 2 3 4 5 SV ít có cơ hội được luyện tập thực hành nghe nói 1 2 3 4 5 Chương trình học trên lớp đúng với trình độ và tốc độ của sinh viên 1 2 3 4 5 SV cảm thấy bị không được quan tâm, bị bỏ quên 1 2 3 4 5 Khoanh tròn vào số phù hợp với ý kiến của bạn. 1= Điều này không bao giờ xảy ra trong lớp. 2 = Điều này hiếm khi xảy ra trong lớp. 3 = Điều này thỉnh thoảng xảy ra trong lớp. 4 = Điều này thường xảy ra trong lớp. 5 = Điều này luôn luôn xảy ra trong lớp Có tới 67,5 % SV (ở GV 70%) cho rằng nhiều thời gian học đã bị lãng phí vào việc duy trì kỷ luật lớp, làm giảm thời gian học. Có thể thấy thời lượng dạy học trên lớp vốn đã hạn hẹp nhưng còn bị chia sẻ cho việc duy trì và xử lý kỉ luật, dẫn tới việc lãng phí thời gian hoặc chưa tối đa hóa được thời gian học tập. 62% các em nhận định GV không hoặc hiếm khi giải đáp khi hết được thắc mắc do trình độ SV phân hóa mà thời lượng có hạn, 57.6% GV cũng chia sẻ hạn chế này. Số lượng các SV không mong muốn (và hiếm khi) đến lớp hoặc đến chỉ vì điểm danh thay vì học kiến thức chiếm tới xấp xỉ 66.9% thực sự là một con số đáng quan ngại. Nó chính là thước đo về tính thiết thực của hàm lượng kiến thức SV nhận được mỗi buổi học. 84,6 %SV (95,8% GV) đánh giá sĩ số lớp quá đông để thực hành 4 kĩ năng nghe nói đọc viết trong môn tiếng Anh, ngành học có đặc thù hạn chế số lượng nếu so với con số cho một mô hình lớp học ngoại ngữ lí tưởng chỉ là 10-15 SV. 73% GV cho biết không có cơ hội cho SV thực hành luyện nói (con số này ở SV là 81%). Khoảng hơn một nửa số SV và GV được hỏi cho biết những gì được học (dạy) luôn luôn không đúng (hoặc ít khi đúng) với kì vọng. Điều này không khó hiểu khi SV có nền tảng học vấn khác nhau và không được phân loại xếp lớp. Đây thực sự là thách thức lớn với GV ngay cả khi hoàn thành mục tiêu là dạy đúng tiến độ và khối lượng được giao. Chương trình học không phù hợp, hoặc quá dễ, hoặc quá khó so với năng lực và tốc độ tiếp thu thực tế đối với SV chiếm tới 70%, một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hứng thú và động cơ lên lớp. Chỉ có hơn 30% SV đánh SV thể hiện sự hài lòng với cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trên lớp qua con số 80%. Nhưng có tới 89% GV thấy không gian lớp không đủ để tiến hành các hoạt động dạy học tích cực, chia nhóm. Số SV cảm thấy không được chú ý chiếm tới 63% % đã cho thấy tác động rõ nét của sĩ số đông đã hạn chế nhiều năng lực đáp ứng kì vọng của GV với SV. Như vậy qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy bản thân các lớp học đông đã gây trở ngại lớn cho việc đạt được các mục tiêu giáo dục. Thứ nhất, GV thường mất nhiều thời gian và năng lượng hơn trong việc tổ chức lớp học/người học, đưa ra hướng dẫn, duy trì kiểm soát và kỷ luật hoặc tổ chức công việc nhóm dẫn đến xu hướng thường chỉ tập trung dạy ngữ pháp thay vì đủ 4 kĩ 34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion năng, càng làm SV cảm thấy nhàm chán. Ngay cả khi dạy nói hay viết thì rất khó để GV đánh giá năng lực SV vì những kĩ năng này đòi hỏi phải có phản hồi cá nhân mà điều này mất quá nhiều thời gian. Thứ hai, phương pháp chỉ tập trung vào nội dung bài giảng thường được GV áp dụng để đối phó với những thách thức của lớp lớn đã làm giảm thiểu tương tác giữa thầy trò, làm người học thấy bị bỏ quên và cô lập, không còn động cơ học, ít đi học. Thứ ba là năng lực không đồng đều của người học sẽ làm mất hứng thú của những em khá giỏi (do thấy nhàm chán vì biết rồi) và các em chậm (nản lòng do không hiểu và tự ti.) Các GV ĐHĐL đều nhận định lớp đông cần thêm nhiều thời gian để xử lý các hoạt động phi học thuật liên quan đến quản lý tổ chức lớp nhằm duy trì kỷ luật trật tự. Khi thời lượng và cơ hội học giảm sẽ hạn chế cả thầy và trò hoàn thành bài giảng theo đúng tiến độ, chưa nói đến việc phải mở rộng, đào sâu kiến thức hoặc đáp ứng những yêu cầu học tập cá nhân của từng SV. Tóm lại, đa số các GV đều thấy nản lòng khi dạy lớp lớn vì dù phải nỗ lực mất sức nhiều hơn mà chất lượng học tập lại thấp. Những khó khăn mà GV thường gặp phải khi dạy lớp sĩ số đông bao gồm: 1) duy trì kỉ luật trong lớp; 2) đáp ứng mọi nhu cầu của SV với những khác biệt lớn về sở thích, năng lực, tính cách, nền tảng học vấn; 3) tổ chức hiệu quả các hoạt động trên lớp do hạn chế về thời gian và không gian 4) cung cấp các cơ hội đều nhau cho mọi SV để tham gia và luyện tập; 5) phản hồi, đánh giá kịp thời và hiệu quả. 3. Các giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng dạy tiếng Anh cho lớp đông sv của trường ĐHĐL 3.1. Chia lớp thành các nhóm nhỏ Phần lớn cơ sở lý thuyết về sĩ số lớp đều tập trung vào việc lựa chọn phương pháp và công cụ dạy học. Chia SV để làm việc theo nhóm cực kì hiệu quả với lớp có đông SV, nơi mà yêu cầu các em tham gia vào hoạt động trên lớp là một thách thức lớn. Với những nhóm nhỏ thì GV có thể thu hút được ngay sự tham gia của hầu hết SV vào các hoạt động học tập. Những em nhút nhát hoặc học lực yếu sẽ cảm thấy thoải mái hơn nhiều khi đặt câu hỏi với những bạn khác trong nhóm thay vì phải hỏi GV và đứng lên trước sự chú ý của cả lớp. Cùng lúc đó SV khá giỏi có cơ hội thể hiện năng lực và thấy bản thân mình trở nên hữu ích và phấn khích do tham gia ở một vai trò mới mẻ là chia sẻ kiến thức giống như trợ giảng khi giúp đỡ được bạn cùng nhóm. Điều đó cũng có nghĩa là trách nhiệm giải thích bài giảng và quản lý kỉ luật của của GV đã được chia sẻ bớt rất nhiều cho các nhóm nhỏ. Có thể nói việc chia lớp thành nhiều nhó m nhỏ giúp giảm tiếng ồn, tiết kiệm thời gian hoàn thành một hoạt động cụ thể và cho phép GV tập trung vào số ít các nhóm thay vì vào hàng chục cá nhân một lúc. Kĩ thuật này cũng góp phần giảm tối đa những hành vi phạm kỉ luật lớp gây gián đoạn, mất tập trung bài học. Áp dụng phương pháp đọc/viết/ nghe/nói mở rộng (ER or EW)/ theo sở thích Tác giả nhận thấy SV không có hứng thú với kĩ năng đọc/viết/ với lý do không thích nội dung bài đọc hoặc là bài quá khó 35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion vì nhiều từ mới. Điều này rõ ràng xuất phát từ việc thiếu hụt từ vựng và nội dung khô khan của sách giáo khoa trong hoàn cảnh lớp quá đông SV và ít thời gian để GV giải đáp từng em. Một đặc điểm thú vị của phương pháp đọc (viết) mở rộng theo sở thích là SV được tự do lựa chọn thể loại và khối lượng tài liệu đọc. SV sẽ không phải tuân thủ theo bất kỳ qui định khắt khe nào khi đọc toàn bộ sách. Trái lại, GV sử dụng phương pháp này sẽ cho phép SV bỏ qua bất kì tài liệu đọc nào làm các em thấy quá sức và nhàm chán. Việc thay đổi từ việc đọc những quyển sách giáo khoa có nội dung đơn điệu, ngôn ngữ thiếu thực tế bằng tài liệu thực cũng sẽ tạo hứng thú tự học cho SV. GV có thể dựa vào các trang báo điện tử (bản tiếng Anh) để SV dùng làm nguồn đọc (ER) chính. Vì báo điện tử rất đa dạng về chủ đề, thể loại như xã hội, văn hóa, thể thao, nghệ thuật, thông tin cập nhật nhất nên sẽ kích thích sự sáng tạo và đam mê đọc của SV. Vì vậy, SV cũng cảm thấy việc trao đổi bài học với nhau trong nhóm của mình như một hoạt động giải trí hơn là nhiệm vụ bắt buộc. Đối với kĩ năng viết mở rộng/viết theo sở thích, GV có thể đưa dự án biên tập tạp chí (magazine- editing project) vào hoạt động dạy học môn viết. Mục tiêu của việc này là khuyến khích SV viết tự nhiên hơn, phong cách tự do và trôi chảy hơn trong quá trình sáng tạo và biên tập tạp chí nhằm bổ sung cho giáo trình viết trên lớp. SV được hoàn toàn tự do đọc, viết và biên tập bài báo, rồi in ấn. GV sẽ dành một thời lượng nhất định để đề xuất ý tưởng (brainstorm), chia sẻ ý tưởng, thảo luận các khó khăn gặp phải và giải quyết vấn đề. Để khuyến sinh SV đọc và lấy thông tin, dữ liệu viết bài thì SV được phép sử dụng khoảng 1/3 - ½ nội dung tạp chí để mô phỏng, điều chỉnh, dịch, đánh giá nhận xét... bằng bất kỳ thể loại hay phong cách nào từ bài tiểu luận, truyện ngắn, tin tức... (ví dụ như cảm xúc, trải nghiệm của chính các em, các sự kiện tin tức trên thế giới), và từ bất kỳ nguồn nào. Phần còn lại là do SV phải tự mình viết. Nhờ vậy SV được bày tỏ chính kiến, quan điểm, giá trị, cảm xúc thông qua việc sử dụng các cụm từ đang học trên lớp. Để truyền cho các em cảm giác là những gì mình viết sẽ dành cho các độc giả thực sự thì GV cần thông báo những sản phầm viết đó sẽ được trưng bày trong lớp học để SV trong lớp cùng đọc, thưởng thức, thậm chí còn đưa lên diễn đàn cho các bạn lớp khác cùng xem. Thông qua làm việc nhóm khi thực hành phương pháp đọc và viết mở rộng/ theo sở thích, SV tham gia nhiều vào việc chuẩn bị nguyên liệu như ý tưởng, từ vựng cho việc viết, đem đến cho các em trải nghiệm vừa làm độc giả, lại vừa là tác giả viết, tạo cảm giác đây là một nỗ lực hợp tác chung, tập hợp và tận dụng được hết mọi ý tưởng sáng tạo đưa vào bài viết. Việc đánh giá nhận xét giữa SV trong lớp học cần được khuyến khích tăng cường như là một chiến lược hợp tác hiệu quả, tạo ra sân chơi cho SV học hỏi lẫn nhau. Trong quá trình thảo luận, SV sẽ nhận ra các bạn cùng lớp cũng đang gặp phải những khó khăn tương đồng như mình, từ đó cảm thấy mình không đơn độc, không e dè khi bị chỉ trích hay cười chê, đồng thời có thể học được cách những bạn khá hơn đã giải quyết vấn đề như thế nào. 3.2. Học tập dựa trên các hoạt động (ABL - Activity-based learning) Người học thường có xu hướng nhớ 50% những gì họ nhìn và nghe thấy thường thấy ở các phương pháp truyền thống dựa trên cách tiếp cận lấy GV làm trung tâm nhưng lại nhớ tới 90% những 36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion gì được nói và làm. Đây chính là bản chất của ABL, đó là một quá trình học thông qua làm, hành động thực tế. Thay vì yêu cầu SV nghe và ghi chép thụ động thì ABL khuyến khích SV tham gia chủ động tích cực. khám phá, thử nghiệm và học độc lập áp dụng kĩ thuật ABL, từ đó trang bị cho SV các kĩ năng giải quyết vấn đề, phân tích đánh giá, phát triển khả năng sáng tạo, tạo nên trải nghiệm riêng của từng cá nhân, bồi đắp sự tự tin và lòng đam mê với môn học. Các công cụ như mô hình ba chiều, thí nghiệm, câu đố, thẻ fl ash, phương pháp nhập vai, v.v... được sử dụng để thu hút người học ở nơi họ học bằng cách tham gia vào các hoạt động này. Kinh nghiệm cảm giác và hành động làm cho việc học tập tốt hơn và có tác động sâu cũng như lâu dài hơn. Điều này dẫn đến một hành trình khám phá thú vị và nâng cao hiểu biết đồng thời giúp giảm các hình thức quản lý lớp học cho các GV. SV có thể làm việc độc lập hay thậm chí là tự đánh giá công việc của mình, giảm gánh nặng mà GV phải đối mặt khi chấm điểm cho SV. 4. Kết luận Thông qua việc nhận diện được những thách thức mà GV EFL ĐHĐL phải đối mặt khi giảng dạy ở những lớp sĩ số đông, có thể nhận thấy dạy học ở bối cảnh này thực sự gây ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả học tập. Tuy nhiên, đây cũng chính là cơ hội cho GV nâng cao năng lực tự phát triển bản thân và không ngừng cập nhật chiến lược giảng dạy phù hợp bằng việc áp dụng phương pháp học tập tích cực lấy SV làm trung tâm, như ABL, hay đọc viết mở rộng, làm việc nhóm, tổ chức hoạt động trò chơi Những phương pháp này sẽ thay đổi mạnh mẽ thái độ học tập nhờ việc thu hút sự tham gia tối đa một cách tích cực và chủ động của SV các hoạt động thực tế hấp dẫn lý, tiếp xúc với các tài liệu thực, thay vì nội dung tẻ nhạt trong sách giáo khoa để khơi dậy lòng đam mê học hỏi, trí tò mò và óc sáng tạo của các em. Tài liệu tham khảo: [1]. British Council (2015), Teaching Large Classess. Viewed Oct. 2015. Retrieved from https://www.teachingenglish.org.uk/article/ teaching-large-classes [2]. Bahanshal, D. A. (2013), The Eff ect of Large Classes on English Teaching and Learning in Saudi Secondary Schools. English Language Teaching Vol. 6, No. 11; 2013 pp.49-59 [3]. Hayes, U. (1997). Helping teachers to cope with large classes. ELT Journal, S 1, 31- 38 Jupp, V. (2006) The SAGE Dictionary of Social Research Methods. Viewed Oct. 24, 2015.Retreived from com/view/the-sage-dictionary-ofsocial- research-methods/n162.xml [4]. Rohin, R. (2013) Teaching English in Large Classes in Afghanistan. Teacher Educator Master Program. Karlstads University. [5]. Xu, Z. (2011) Problems and strategies of teaching English in large classes in the People’s Republic of China. Veiwed, October, 28, 2015. Retrieved from au/events/conferences/tlf/tlf2001/xu.html Địa chỉ tác giả: Trường Đại Học Điện Lực Email: huongttt@epu.edu.vn
File đính kèm:
- tac_dong_cua_lop_co_si_so_dong_doi_voi_viec_day_tieng_anh_o.pdf