Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp
Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn
thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và
tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây
là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã
trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở
Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại
học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều
phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng,
trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành
rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu
dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động
lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi
dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng
về hình thức, thể lệ, mục đích,. Tuy nhiên, không phải lúc
nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong
muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần
lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn
trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,. Bên cạnh đó, nhiều
nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong
giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các
nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi
riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định
(nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,.).
Nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về trò chơi và sử
dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh nói chung, bài
viết đề cập khái niệm về trò chơi, những ưu điểm của việc
sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, phương
pháp áp dụng trò chơi và một số điểm lưu ý khi áp dụng
phương pháp này
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 240 Email: ntthuyen@hluv.edu.vn SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH - MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP Nguyễn Thị Thúy Huyền - Phạm Thanh Tâm - Nguyễn Thị Liên Trường Đại học Hoa Lư Ngày nhận bài: 20/02/2019; ngày chỉnh sửa: 18/3/2019; ngày duyệt đăng: 19/5/2019. Abstract: This article focuses on the use of games in TEFL (Teaching English as a Foreign Language). Firstly, we present the definition of games in TEFL, the purposes of using games in teaching and learning as well as its classifications. Then, the article provides an insight into how games can be employed in the language classrooms, including when to use games, which games to use and the procedure to apply them. The final part of the article looks at some outstanding notices which should be carefully considered. Keywords: Games, purpose, method, TEFL classrooms. 1. Mở đầu Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng, trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng về hình thức, thể lệ, mục đích,... Tuy nhiên, không phải lúc nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,... Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định (nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,...). Nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về trò chơi và sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh nói chung, bài viết đề cập khái niệm về trò chơi, những ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, phương pháp áp dụng trò chơi và một số điểm lưu ý khi áp dụng phương pháp này. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ Byrne (1980) định nghĩa trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ là một hình thức chơi chiểu theo các quy tắc và bản chất là chúng rất thú vị và vui vẻ [1]. Đề cập đến các đặc tính cụ thể hơn của “trò chơi” trong giảng dạy ngoại ngữ, Greenall (1990) nêu rõ: “thuật ngữ “trò chơi” được sử dụng bất cứ khi nào có yếu tố cạnh tranh giữa các sinh viên hoặc các nhóm trong một hoạt động ngôn ngữ” [2; tr 6]. Đồng tình với quan điểm trên, theo Rixon (1992), trò chơi bao gồm hai tính năng chính: cạnh tranh và hợp tác giữa các người chơi. Cạnh tranh có thể là “một người chống lại phần còn lại” hoặc các cá nhân cạnh tranh nhau, và hợp tác có thể là “mọi người cùng nhau”, “hợp tác trong một nhóm”, “cùng với một nhóm chống lại phần còn lại” hoặc “cùng với một cá nhân khác chống lại phần còn lại”; trong một trò chơi, có thể là cạnh tranh hoặc hợp tác, hoặc cả hai [3]. Bên cạnh đó, ông đưa ra sự phân biệt giữa “trò chơi ngôn ngữ” và “trò chơi thông thường” - đó là việc sử dụng ngôn ngữ để đạt được mục đích. Theo ông, “trò chơi ngôn ngữ” có thể sử dụng một số kĩ năng được thực hiện trong “trò chơi thông thường” như kĩ năng vật lí, phối hợp tay và mắt như chơi tennis, hoặc trí tuệ và chiến thuật như chơi cờ vua, cờ tướng. Tuy nhiên, trọng tâm trong “trò chơi ngôn ngữ” chính là ngôn ngữ. Bất kể mục đích cụ thể của trò chơi là gì, mục tiêu chung của tất cả các trò chơi ngôn ngữ là phát triển và cải thiện kĩ năng ngôn ngữ, chẳng hạn như chính tả, phát âm, nghe hiểu, đọc hiểu,... Tóm lại, trò chơi là một phương pháp được sử dụng trong giảng dạy ngoại ngữ; theo đó, các hoạt động chơi diễn ra có quy tắc và có tính cạnh tranh, hợp tác với trọng tâm là ngôn ngữ. Qua các trò chơi, người học trải nghiệm sự vui vẻ và phát triển khả năng ngôn ngữ của mình. 2.2. Ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ Bàn về vai trò của trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, Wright, Betteridge và Buckby (1984) đã viết: “Học ngôn ngữ là công việc khó khăn. Người học cần nỗ lực ở VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 241 mọi thời điểm trong một thời gian dài. Trò chơi giúp đỡ và khuyến khích nhiều người học duy trì sự yêu thích với môn học và nâng cao động lực học tập”, đồng thời “trò chơi giúp GV tạo ra ngữ cảnh trong đó ngôn ngữ trở nên hữu ích và có ý nghĩa” [4; tr 1]. Cùng quan điểm trên, Lee (1995) nhấn mạnh, học tập là một hoạt động nghiêm túc nhưng nếu một người vui vẻ, cười nói thì không có nghĩa là việc học tập đó trở nên thiếu trang trọng. Ông cho rằng việc học ngôn ngữ có thể đi đôi với sự tận hưởng. Một trong những cách tốt nhất để làm điều này là thông qua trò chơi [5]. Richard-Amato (1996) trong cuốn sách của mình cũng đã viết, mặc dù trò chơi thường gắn liền với niềm vui, chúng ta không nên đánh mất các giá trị sư phạm của chúng, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ. Trò chơi có hiệu quả khi chúng tạo động lực, giảm căng thẳng cho người học và tạo cơ hội cho người học ngôn ngữ giao tiếp thực sự [6; tr 10]. Có thể thấy, các tác giả trên đều nhấn mạnh mục đích quan trọng của việc sử dụng trò chơi trong dạy học là GV muốn có một bài học tốt hơn, đồng thời học sinh (HS) của họ cũng hưởng nhiều lợi ích nhờ phương pháp này. Một số lợi ích chung của việc sử dụng trò chơi trong giảng dạy và học tập ngoại ngữ được tóm tắt như sau: 2.2.1. Trò chơi cung cấp môi trường học tập lấy người học làm trung tâm Trong quá trình diễn ra trò chơi, GV đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin - hỗ trợ người học về từ vựng, cấu trúc mới hoặc cách diễn đạt, người học là chủ thể của hoạt động, được GV trao quyền chủ động trong việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ. Trò chơi không chỉ tăng cường tính hợp tác giữa các thành viên trong lớp học mà tính cá nhân của mỗi người học cũng được nhấn mạnh. Nói cách khác, phương pháp sử dụng trò chơi nằm trong trào lưu chung bên cạnh hình thức lớp học do GV điều khiển, góp phần thúc đẩy hoạt động dạy học lấy người học làm trung tâm. 2.2.2. Trò chơi giúp tăng động lực của người học Có thể nói, động lực của người học là yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến thành công của buổi học và sử dụng trò chơi ngôn ngữ là một trong những cách tốt nhất để tạo ra một bài học thú vị, giúp duy trì động lực của HS. David và Hollowell (1989) đã viết, “bởi vì các trò chơi đòi hỏi và thúc đẩy sự tham gia của người học ở mức độ cao, chúng mang lại nhiều động lực hơn so với sách giáo khoa và các phiếu tài liệu” [7]. Khi học viên được trao cơ hội chơi, họ được khuyến khích chọn đối tác của mình. Điều này không chỉ tạo ra một bầu không khí làm việc thân thiện mà còn thúc đẩy người học giúp đỡ lẫn nhau. Do đó, tất cả những người học sẽ cảm thấy hạnh phúc và có động lực hơn khi tham gia vào các trò chơi. Thậm chí, trò chơi làm tăng thêm sự quan tâm của người học vào những điều có thể họ không thấy thú vị. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa những cá nhân hoặc các đội là yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ, kích thích người học tham gia chơi. Các hoạt động trong trò chơi khiến tất cả HS di chuyển xung quanh, kích hoạt năng lực tinh thần, do đó thúc đẩy người học trong việc học tập và có khả năng “giữ chân” họ. Vào thời điểm đó, những HS nhút nhát cũng tham gia các hoạt động một cách vui vẻ, quên đi sự nhút nhát và cảm giác sợ hãi. Có thể thấy rõ rằng trò chơi có tác dụng lớn giúp thu hút sự chú ý và tham gia của người học, từ đó thúc đẩy người học muốn tìm hiểu sâu hơn về bài học. Không chỉ thế, trò chơi có thể biến một lớp học nhàm chán thành một tập thể đầy tính cạnh tranh. 2.2.3. Trò chơi thúc đẩy sự tương tác của người học Trong hầu hết các trò chơi, người học phải chơi theo nhóm, trong đó các thành viên được khuyến khích thay phiên nhau, thay vì để một số người thực hiện tất cả các cuộc đối thoại và các nhiệm vụ của cả nhóm. Khi chơi trò chơi, để cố gắng để giành chiến thắng hoặc để đánh bại các đội khác, người học sẵn sàng đặt câu hỏi, giao tiếp và thảo luận với các bạn cùng nhóm và suy nghĩ việc sử dụng tiếng Anh một cách sáng tạo để đạt được mục tiêu. Sự cạnh tranh trong trò chơi tạo cơ hội cho người học làm việc cùng nhau và giao tiếp bằng tiếng Anh với nhau rất nhiều. Ngoài ra, trò chơi theo cặp hoặc theo nhóm nhỏ giúp người học phát triển kĩ năng khi làm việc với người khác như kĩ năng không đồng ý một cách lịch sự và kĩ năng yêu cầu trợ giúp [8]. 2.2.4. Trò chơi giúp người học tăng khả năng tiếp thu ngôn ngữ Theo Avedon và Sutton-Smith (1971), nhờ động lực và sự tương tác được tạo ra trong khi chơi, HS có thể tiếp thu bài học của mình một cách hiệu quả hơn và thích thú hơn [9]. Trước hết, phương pháp này tạo ra nhiều cơ hội học tập cho người học. Do đặc điểm của trò chơi ngôn ngữ là việc sử dụng ngôn ngữ trong quá trình chơi, “người học phải làm việc với ngôn ngữ để bạn mình có thể hiểu những gì họ đang nói” [10]. Như vậy, cùng lúc với việc vui chơi, người học có thể học tập và tiếp thu ngôn ngữ mới. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh của các trò chơi cũng là một yếu tố giúp người học tăng khả năng tiếp thu. Chính tính cạnh tranh là yếu tố kích thích và khuyến khích người học tham gia vào hoạt động chơi. Theo bản năng tự nhiên, họ muốn đánh bại các đội khác vì thế người học sẽ nỗ lực sử dụng ngôn ngữ nhiều nhất có thể trong các hoạt động để giành chiến thắng. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 242 Ngoài ra, rõ ràng bầu không khí dễ chịu, thoải mái được tạo ra qua các trò chơi cũng là một yếu tố quan trọng giúp người học nhớ kiến thức nhanh hơn và tốt hơn. Richard-Amato (1988) nhấn mạnh: “trò chơi có thể làm giảm sự lo lắng, giúp cho người học không bị căng thẳng khi sử dụng ngôn ngữ mới, theo đó khả năng tiếp thu đầu vào cũng tăng lên” [11; tr 147]. Theo một nghiên cứu của hai tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền và Khuất Thị Thu Nga (2003), HS có xu hướng học tốt hơn khi việc học tập được áp dụng trong một môi trường thoải mái như chơi trò chơi [12]. Thực tế đã được chứng minh rằng, một lớp học sôi nổi và tích cực khi học tập thông qua một số trò chơi ngôn ngữ tiếng Anh thú vị có thể lĩnh hội 100% lượng kiến thức của bài học và lưu giữ lại đến 80%. Điều này được củng cố thêm qua nghiên cứu của Dương Ngọc Châu (2008) khi có tới 90% sinh viên tâm sự rằng họ có thể nhớ những từ mới nhanh hơn và tốt hơn nhờ bầu không khí thoải mái được tạo ra bằng cách chơi trò chơi [13]. Có thể rút ra rằng, ý nghĩa của ngôn ngữ mà người học nghe, đọc, nói và viết sẽ được trải nghiệm một cách sinh động hơn trong một trò chơi và do đó, người học sẽ nhớ rõ hơn về ngôn ngữ mà họ đã học. 2.2.5. Trò chơi tăng thành tích của người học Theo như chúng ta biết, trò chơi có thể liên quan đến tất cả các kĩ năng ngôn ngữ cơ bản, tức là nghe, nói, đọc, viết, và thông thường nhiều kĩ năng cùng hội tụ vào một trò chơi. Theo Zdybiewska (1994), trò chơi là một cách hay để thực hành ngôn ngữ vì chúng cung cấp một mô hình về những gì người học sẽ sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống thực [14; tr 6]. Như đã nhấn mạnh ở trên, trò chơi có thể tăng động lực của người học, thúc đẩy tương tác của người học và cải thiện việc tiếp thu của người học. Kết quả là, trò chơi có thể tăng thành tích của người học, có nghĩa là điểm số của người học, khả năng giao tiếp, một số kĩ năng, kiến thức về từ vựng hoặc các kĩ năng ngôn ngữ khác có thể cải thiện. Riedel (2008) trong nghiên cứu của mình đã nhận định, chúng ta đang dạy một thế hệ người học mới, đòi hỏi các chiến lược giảng dạy độc đáo được đưa vào thực tế trong lớp học; và khi GV sử dụng các trò chơi vào giảng dạy, HS có lợi thế thể hiện bản thân họ - với một ước muốn lớn hơn để học hỏi và đạt điểm thi cao hơn [15]. Tóm lại, trò chơi được chứng minh là một công cụ hữu ích nên được sử dụng thường xuyên trong giảng dạy ngôn ngữ. Trò chơi không chỉ cung cấp cho người học một lớp học có động lực cao, thư giãn, mà quan trọng nhất là môi trường thực hành có ý nghĩa đối với tất cả các kĩ năng ngôn ngữ. Do đó, trò chơi có thể thúc đẩy người học, thúc đẩy sự tương tác của người học, cải thiện việc tiếp nhận của họ và tăng thành tích của họ. 2.3. Phân loại trò chơi Theo Rixon (1992), có hai loại trò chơi ngôn ngữ: trò chơi ngôn ngữ và trò chơi giao tiếp [3]. Trò chơi ngôn ngữ yêu cầu người chơi đưa ra ngôn ngữ chính xác hoặc chứng tỏ rằng họ diễn đạt chính xác một phần nhất định của ngôn ngữ như âm thanh, từ vựng chính tả hoặc cấu trúc. Độ dài của lời nói được sử dụng trong các trò chơi thuộc loại này có giới hạn từ một từ đến một hay hai câu. Sự lặp lại chính xác của một chuỗi ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong các trò chơi này. Có thể nói, các trò chơi này là một hình thức ôn luyện. Khác với trò chơi ngôn ngữ, trò chơi giao tiếp chú trọng đến hiệu quả giao tiếp. Sự thành công trong các trò chơi này được đánh giá qua nội dung lời nói thay vì hình thức. Ngôn ngữ mà người chơi sử dụng trong các trò chơi này có thể tự do hơn và đa dạng hơn so với ngôn ngữ trong các trò chơi kiểm soát mã. Lời nói có thể không hoàn hảo, nhưng nếu thông điệp được hiểu đúng thì khi đó người chơi đã đạt được mục tiêu của mình. Mỗi trò chơi đều có vai trò riêng của mình trong một chương trình giảng dạy và chúng không những không xung đột về chức năng mà còn hỗ trợ cho nhau. Các trò chơi ngôn ngữ giúp người học sử dụng ngôn ngữ chính xác, còn các trò chơi giao tiếp nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ của người học lên mức linh hoạt và hiệu quả hơn. Hadfield (1999) đưa ra hai cách phân loại các trò chơi ngôn ngữ. Với cách đầu tiên, các trò chơi ngôn ngữ cũng được chia thành hai loại tương tự các trò chơi ngôn ngữ và trò chơi giao tiếp của Rixon (1992). Trong đó, ông nêu rõ, trò chơi ngôn ngữ tập trung vào độ chính xác, chẳng hạn như cung cấp từ trái nghĩa, trong khi trò chơi giao tiếp tập trung vào việc trao đổi thông tin và ý tưởng, chẳng hạn như hai người xác định sự khác biệt giữa hai hình ảnh của họ giống nhau nhưng không giống hệt nhau. Việc sử dụng ngôn ngữ chính xác mặc dù vẫn quan trọng nhưng là thứ yếu để đạt được mục tiêu giao tiếp [16]. Cách thứ hai, Hadfield phân loại các trò chơi ngôn ngữ thành nhiều loại khác nhau. Cùng với trò chơi ngôn ngữ và trò chơi giao tiếp, một số trò chơi sẽ bao hàm cả hai loại như: phân loại, sắp xếp, điền thông tin, đoán chữ, tìm kiếm, ghép nối, ghi nhãn, đóng vai [16]. Theo như Lee (2000), được trích dẫn trong nghiên cứu của hai tác giả Lưu Trọng Tuấn và Nguyễn Thị Minh Doan, 2012), trò chơi được chia thành các loại như sau: - Trò chơi cấu trúc; - Trò chơi từ vựng; - Trò chơi chính tả; - Trò chơi phát âm; - Trò chơi số; - Trò chơi nghe và VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 243 làm; - Trò chơi chơi và viết; - Bắt chước và đóng vai; - Trò chơi thảo luận [17]. Một cách phân loại trò chơi khác được đề xuất bởi McCallum (1980), bao gồm bảy loại: - Trò chơi cấu trúc; - Trò chơi từ vựng; - Trò chơi số; - Trò chơi chính tả; - Trò chơi đối thoại; - Trò chơi viết; - Trò chơi đóng vai và diễn kịch [18]. Có thể thấy, điểm chung của các cách phân loại trò chơi nêu trên là mỗi loại trò chơi tập trung vào một khía cạnh ngôn ngữ hoặc một kĩ năng nhất định tùy theo mục đích và nội dung của bài học. Do đó, GV nên cẩn thận lựa chọn trò chơi phù hợp nhất cho mỗi bài học để người học và GV có thể hưởng lợi nhiều nhất từ các trò chơi này. 2.4. Phương pháp áp dụng trò chơi trong giảng dạy ngôn ngữ 2.4.1. Thời điểm sử dụng trò chơi Thông thường, trò chơi ngôn ngữ được sử dụng để lấp chỗ trống ở một vài phút đầu hoặc cuối của một bài học hoặc chỉ dành cho một số HS nhanh hơn trong khi những HS khác chỉ quen với hình thức làm bài tập. Không có gì sai trong việc này, nhưng đó là một cái nhìn khá hạn hẹp về trò chơi. Theo Lee (1991), một trò chơi “không nên được coi là một hoạt động ngoài lề trong những khi GV và HS không có việc gì tốt hơn để làm”, nó phải là trung tâm của việc giảng dạy ngoại ngữ [19]. Wright, Betteridge và Buckby (1984) cũng nhận định rằng, “trò chơi là một hoạt động thực hành ngôn ngữ đậm nét và ý nghĩa, do đó chúng phải được coi là trọng tâm cho tiết dạy của GV. Chúng không nên chỉ được sử dụng vào những ngày mưa và cuối học kì” [4]. Trò chơi có thể được sử dụng để thực hành tất cả các kĩ năng: đọc, viết, nghe và nói; trong tất cả các giai đoạn của quá trình dạy và học như: trình bày, lặp lại, tái kết hợp và sử dụng ngôn ngữ tự do; và cho nhiều hình thức giao tiếp như khuyến khích, phê bình, đồng ý, giải thích. Nói chung, trò chơi có thể là một phần tích hợp của giáo trình giảng dạy và có thể được sử dụng ở bất kì giai đoạn nào của quá trình dạy ngôn ngữ miễn là chúng phù hợp và được lựa chọn một cách cẩn thận. 2.4.2. Lựa chọn trò chơi Trò chơi có thể được lấy từ nhiều nguồn nhưng không phải tất cả chúng đều áp dụng được vào lớp học. Các trò chơi có thể được sử dụng phỏng theo nguyên bản hoặc biến tấu thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời đại công nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi trong giảng dạy như ngày nay, các trò chơi được thiết kế rất phong phú trên nhiều phần mềm hỗ trợ như: PowerPoint, Kahoot, Google Forms, Edmodo,... và được tiến hành chơi thông qua các công cụ như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng. Một số trò chơi khá phổ biến như là: Telephone Game, Crossword, Kim’s Game, Hot Seat, Meeting People, Jobs and Questions, Hang Man, Bingo, Who’s Millionaire?... GV nên lựa chọn khôn ngoan về việc trò chơi nào có thể sử dụng cho việc học hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích đó, quyết định quan trọng của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất là yếu tố về độ tuổi của người học. Wright, Betteridge và Buckly (1984) nói rằng, “thưởng thức trò chơi không bị hạn chế theo độ tuổi” [4; tr 2]. Một số người, bất kể tuổi tác, có thể ít quan tâm đến trò chơi hơn những người khác. Tuy nhiên, kết quả của việc áp dụng trò chơi phụ thuộc nhiều vào sự phù hợp và vai trò của người chơi. Tuổi của học viên chi phối lựa chọn trò chơi cho việc dạy ngôn ngữ vì không phải tất cả các trò chơi đều phù hợp với mọi người học bất kể độ tuổi của họ, các nhóm tuổi khác nhau yêu cầu chủ đề, tài liệu và phương thức trò chơi khác nhau. Ví như sẽ không hợp lí khi cho trẻ nhỏ chơi trò Hình ảnh Dominoes - trò chơi yêu cầu khả năng liên kết các khái niệm trừu tượng. Hay mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau về hoạt động chơi trò chơi. Nhóm tuổi nhỏ thường rất sẵn sàng và thích thú chơi trò chơi. Nhưng lứa tuổi thanh thiếu niên có thể coi là nhóm khó khăn nhất để sử dụng trò chơi vì họ không muốn bị đối xử như trẻ nhỏ. Với lứa tuổi này, tốt hơn hết, từ “hoạt động” cũng nên được dùng thay thế từ “trò chơi”. Một lí do được đưa ra là lứa tuổi thanh thiếu niên có khuynh hướng tự ý thức về bản thân, do đó GV nên “cân nhắc sự thu mình của họ” khi chọn trò chơi. Trong trường hợp này, các trò chơi theo cặp hoặc theo nhóm có thể sẽ hữu ích. Khác với nhóm trẻ em và thanh thiếu niên, nhóm người trưởng thành thường thoải mái vui vẻ tham gia các trò chơi một c
File đính kèm:
- su_dung_tro_choi_trong_giang_day_tieng_anh_muc_dich_va_phuon.pdf