Những biến đổi trong chiều sâu của từ vựng

Thực chất, nói cho giản dị hơn thì đây là những biến đổi về phương diện ngữ

nghĩa của từ trong từ vựng. Những biến đổi này rất phức tạp và tinh tế, nhiều

khi chồng chéo lên và cùng diễn ra với những biến đổi ở bề mặt. Có hai

trường hợp chính trong biến đổi nghĩa của từ cần được kể tới sau đây.

pdf2 trang | Chia sẻ: việt anh | Lượt xem: 2036 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những biến đổi trong chiều sâu của từ vựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những biến đổi trong chiều sâu của từ 
vựng 
Thực chất, nói cho giản dị hơn thì đây là những biến đổi về phương diện ngữ 
nghĩa của từ trong từ vựng. Những biến đổi này rất phức tạp và tinh tế, nhiều 
khi chồng chéo lên và cùng diễn ra với những biến đổi ở bề mặt. Có hai 
trường hợp chính trong biến đổi nghĩa của từ cần được kể tới sau đây. 
1. Thu hẹp nghĩa của từ 
Đúng ra, phải hiểu đây là sự thu hẹp phạm vi biểu hiện (định danh) của từ. 
Xu hướng này có thể tìm thấy trong những từ như: thầy... của tiếng 
Việt; meat, deer... của tiếng Anh... 
- thầy: Từ chỗ gọi tên cho các đối tượng như: thầy giáo, thầy đồ, thầy khoá, 
thầy lang, thầy cai, thầy lí, thầy kí, thầy thông... hiện nay từ này chỉ còn 
dùng chủ yếu với nghĩa thầy giáo và thầy thuốc. 
- meat vốn có nghĩa là "thực phẩm" nói chung; deer vốn chỉ "con vật" nói 
chung, nhưng nay tiếng Anh đã thu hẹp bớt dung lượng nghĩa của các từ này 
lại: meat= thịt; còn từ deer chỉ có nghĩa là "con hươu" 
Hiện tượng thu hẹp nghĩa rất hay gặp trong khi xây dựng thuật ngữ cho 
các ngành khoa học: Người ta thu hẹp nghĩa của từ thông thường lại và chỉ 
dùng với một nghĩa thuật ngữ, nghĩa chuyên môn hoá đó. Trong tiếng Việt, 
xu hướng thu hẹp nghĩa nói chung là không mạnh bằng mở rộng nghĩa. 
2. Mở rộng nghĩa của từ 
Xét các ví dụ: 
- Động từ land trong tiếng Anh có nghĩa là tiếp đất, hạ cánh (xuống mặt 
đất). Hiện nay động từ này mở rộng nghĩa ra, bao gồm cả việc hạ cánh 
xuống mặt nước (The swan landed on the lake – Con thiên nga hạ cánh 
xuống mặt hồ). 
- Đồng từ cắt trong tiếng Việt vốn có nghĩa là: làm đứt bằng vật sắc. Hiện 
nay nghĩa của từ này mở rộng ra gồm cả việc chấm dứt hành động, việc làm 
nào đó(cắt viện trợ, cắt quan hệ, cắt đường chuyền bóng...) hoặc phân công 
làm việc gì đó theo luân phiên hoặc thứ tự lần lượt: cắt trực nhật, cắt người 
canh đê, cắt lượt đi tuần... 
Cơ sở của việc mở rộng nghĩa của từ chính là sự chuyển di tên gọi đẫn 
đến việc chuyển nghĩa theo xu hướng mở rộng. Đồng thời với mở rộng 
nghĩa tất yếu là mở rộng phạm vi định danh của từ. Ví dụ: Trước đây tiếng 
Việt có từ đồng hồ vốn có nghĩa là "cái hồ làm bằng đồng, trong đó chứa 
nước để cho chảy dần đi, căn cứ vào lượng nước đã chảy đi nhiều hay ít để 
tính thời gian". Ngày nay, từ này đã chuyển sang gọi vật dùng để đo thời 
gian nói chung mà bất kể nó được làm bằng gì, hoạt động theo nguyên tắc 
nào: đồng hồ quả lắc, đồng hồ điện tử... 
Tương tự như trên, ta có thế thấy từ fee (tiền công, tiền thù lao), pen (bút) 
trong tiếng Anh cũng vậy. fee vốn có nghĩa là "gia súc", thời xưa gia súc đã 
từng được dùng làm vật thanh toán giá trị. Còn pen vốn có nghĩa là "lông 
ống, lông vũ" – loại lông mà thời xưa được dùng làm bút viết. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_bien_doi_trong_chieu_sau_cua_tu_vung_9755.pdf
Tài liệu liên quan