Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh qua việc sử dụng truyền thông và Công nghệ thông tin trong thời đại công nghiệp 4.0
Trong quá trình học tiếng Anh, vì sinh viên chưa khai thác triệt để các phương
tiện, thiết bị truyền thông và công nghệ thông tin để tự học, nên gặp nhiều khó khăn trước
yêu cầu thực tiễn ở nhiều phương diện. Do đó, việc giúp sinh viên tiếp cận và sử dụng tốt
các công cụ trên để nâng cao chất lượng của việc tự học tiếng Anh là một đòi hỏi bức thiết.
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với khảo sát để tìm hiểu
và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Từ đó, tác giả thống kê kết quả và đưa ra những đánh
giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong khả năng tự học tiếng Anh cho người học
thông qua việc sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin (CCTT và CNTT)
hỗ trợ trong thời đại mới - thời đại công nghiệp 4.0.
Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 1 NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ HỌC TIẾNG ANH QUA VIỆC SỬ DỤNG TRUYỀN THÔNG VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP 4.0 Nguyễn Vũ Thanh Tuyền* Trường Đại học Ngoại Thương - Cơ sở II - TP. HCM Nhận bài: 18/09/2017; Hoàn thành phản biện: 23/10/2018; Duyệt đăng: 25/03/2018 Tóm tắt: Trong quá trình học tiếng Anh, vì sinh viên chưa khai thác triệt để các phương tiện, thiết bị truyền thông và công nghệ thông tin để tự học, nên gặp nhiều khó khăn trước yêu cầu thực tiễn ở nhiều phương diện. Do đó, việc giúp sinh viên tiếp cận và sử dụng tốt các công cụ trên để nâng cao chất lượng của việc tự học tiếng Anh là một đòi hỏi bức thiết. Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với khảo sát để tìm hiểu và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Từ đó, tác giả thống kê kết quả và đưa ra những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong khả năng tự học tiếng Anh cho người học thông qua việc sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin (CCTT và CNTT) hỗ trợ trong thời đại mới - thời đại công nghiệp 4.0. Từ khóa: công nghệ thông tin, tiếng Anh, truyền thông, tự học 1. Mở đầu Trong quá trình giảng dạy tại một số trường đại học, tác giả nhận thấy rất nhiều sinh viên gặp khó khăn và chưa tìm ra được con đường đúng đắn để phát huy năng lực ngoại ngữ cho chính bản thân mình. Chưa kể đến việc khi các em tốt nghiệp, cần một chứng chỉ ngoại ngữ để làm điều kiện tiền đề cho việc nộp hồ sơ xin việc cũng là một khó khăn lớn đối với nhiều sinh viên. Điều này được khẳng định theo nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong hội nghị Tổng kết năm học 2015-2016 của Bộ GD và ĐT được tổ chức ngày 5/8/2016 tại Hà Nội và của PGS.TS. Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội trong cuộc trao đổi về chủ đề Nhân lực hội nhập. Thông thường, giải pháp cơ bản nhất để khắc phục khó khăn này ngay khi vẫn đang là sinh viên tại một trường đại học hay khi ở giai đoạn tìm việc làm mà các sinh viên hay người tìm việc vẫn thường áp dụng là tìm một chỗ dựa một cách thụ động - tức là tìm một giáo viên hay người có chuyên môn về ngoại ngữ để giảng dạy cho họ, và hoàn toàn chưa sử dụng hết khả năng có thể để khắc phục hạn chế về ngoại ngữ. Hay nói cách khác, nếu sinh viên đã có nền tảng vững chắc về ngoại ngữ, thì vấn đề còn lại là duy trì để không làm mất đi kỹ năng hoặc khả năng vốn có. Còn nếu trong trường hợp nền tảng về khả năng tiếng Anh của sinh viên còn quá yếu kém, hay chưa vững, thì việc ‘dựa dẫm’ hay ‘phụ thuộc’ vào một người có trình độ chuyên môn cao là điều chắc chắn. Tuy nhiên, vấn đề đáng nói ở đây là sự phụ thuộc chủ động, chứ không phải là sự phụ thuộc thụ động từ phía sinh viên. Khi đề cập đến điều này, tác giả đang ngầm ý nói đến tính tự học ở các sinh viên, cho dù các em thuộc nhóm sinh viên vẫn phải đang dựa dẫm vào người khác để rèn luyện kỹ năng ngoại ngữ cho mình. Như vậy, tự học, hay học tập suốt đời là đòi hỏi quan trọng trong mỗi cá nhân, khi người thầy không phải luôn luôn bên * Email:nguyenvuthanhtuyen.cs2@ftu.edu.vn Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 2 cạnh để động viên, kiểm tra, nhắc nhở, và đặc biệt khi thời gian để đến lớp học không phải là một vấn đề mang tính lựa chọn. Trước thực tiễn trên, tác giả đã đi sâu tìm hiểu và phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan trong và ngoài nước với những tóm tắt như sau: Trong nước Trong các bài viết ‘Learner autonomy in EFL learning: from theory to practice’ (NCS. Bùi Thị Nhung, 2017), ‘Using portfolio in fostering learner autonomy in teaching grammar: An action research’ (Phùng Thị Đức, 2017), và ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành tại trường Đại học Ngoại thương’ (Bùi Thị Kim Phúc, 2017), các tác giả có đề cập đến tầm quan trọng của tự học trong quá trình phát triển năng lực ngoại ngữ và đưa ra những đề xuất cho việc phát triển khả năng tự học tiếng Anh ở sinh viên. Tuy nhiên, sự tập trung của các tác giả không phải là việc sử dụng các công cụ công nghệ thông tin để hỗ trợ việc tự học ngoại ngữ, nên đây sẽ là chủ đề để tác giả lựa chọn cho bài nghiên cứu của mình. Đề tài ‘Phát triển môi trường tiếng Anh ngoài lớp học nhằm đạt chuẩn đầu ra cho sinh viên Đại học Thái Nguyên’ do TS. Trần Thị Nhi làm chủ nhiệm (2016) đề cập rất chu đáo các hoạt động ngoài lớp học nhằm phát triển các kỹ năng tiếng Anh cho sinh viên, có sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin để hỗ trợ các hoạt động này. Nhưng điểm khác nhau cơ bản về mặt nội dung giữa đề tài này (1) và chủ đề mà tác giả đã thực hiện (2) là: Với (1), đội ngũ giảng dạy vạch ra một cách cụ thể các hoạt động sử dụng CCTT và CNTT để phát triển các kỹ năng tiếng Anh cho sinh viên; còn với (2): tác giả tìm hiểu các CCTT và CNTT mà sinh viên của tác giả đã và đang sử dụng để phát triển các kỹ năng tiếng Anh, từ đó nhận ra những ưu, nhược điểm từ việc khai thác các phương tiện này của các em để đưa ra những hướng dẫn mà các em chưa nhận ra được trong quá trình sử dụng phương tiện truyền thông và công nghệ để hỗ trợ việc tự học. Cũng với lý do tương tự dẫn đến việc tác giả lựa chọn chủ đề nghiên cứu này, đó là đề tài ‘Thực trạng kỹ năng tự học ngoài lớp học của sinh viên chính quy sư phạm trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh’ do Nguyễn Thị Thu Huyền chủ nhiệm (2014) chỉ đánh giá kỹ năng tự học của sinh viên đại học Sư phạm thuộc 4 khối ngành Địa, Anh, Hóa và Tâm lý giáo dục thông qua 5 nhóm kỹ năng tự học, gồm: lập kế hoạch tự học, đọc sách, ghi chép, ôn tập và tự kiểm tra. Ngoài nước Trong nghiên cứu của mình được thực hiện đối với các học viên theo học tại Trung tâm tiếng Anh của đại học Indiana, Gradman và Hanania (1991) đã nhận định yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng lực tiếng Anh của học viên là tính chủ động trong việc khai thác tài liệu nghe và đọc ngoài lớp học. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ chú trọng đến việc học viên tự học hai trong số những kỹ năng tiếng Anh nói chung, chứ không khai thác mức độ sử dụng công cụ hỗ trợ tự học. Bài viết ‘Learner autonomy in language learning: Student teacher’s Beliefs’ của Balçikanli (2010) cũng đã nghiên cứu quan điểm của các giáo sinh tại một trường đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gazi, về vấn đề tự học và những yếu tố mà các giáo sinh này đánh giá là quan trọng trong phát huy tính tự học ở học sinh. Bài viết chú trọng đến những yếu tố liên quan đến phát Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 3 huy tinh thần tự học ngoại ngữ khái quát, không đề cập sâu đến việc sử dụng CCTT và CNTT để phát huy hiệu quả của việc tự học. Tóm lại, trước thực tiễn đã được nêu trên cùng với những kết quả từ những nghiên cứu có liên quan, trong bài viết này, tác giả sẽ đi sâu phân tích và tìm hiểu về khả năng học tập độc lập và những đặc điểm nổi trội của thời đại công nghiệp 4.0 với sự đa dạng của các phương tiện và công cụ truyền thông khác nhau để hiểu rõ những tác động có thể có của nó đối với việc tự học tiếng Anh; sau đó, tác giả thực hiện cuộc khảo sát về: 1. tinh thần tự học của sinh viên trong việc học tiếng Anh (trong bài viết này, tác giả dùng cụm từ ‘tự học’ với ý nghĩa là ‘tự học có sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin’ (CCTT và CNTT)), 2. những công cụ hỗ trợ việc tự học tiếng Anh của người học, cũng như 3. đánh giá về tính hiệu quả của những công cụ đó đối với người học, Và cuối cùng, tác giả đưa ra những góp ý đề xuất để sinh viên có thể tham khảo và áp dụng cho quá trình tự học của mình. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Khái niệm cơ bản về tự học Về định nghĩa tự học, tác giả có thể trích dẫn lời của Holec (1981, trích dẫn trong Benson & Voller, 1997): ‘khả năng chịu trách nhiệm về việc học của mình’. Leni Dam (1990, trích dẫn trong Littlejohn, 1997) xác định tự học là sự sẵn lòng của người học và khả năng quản lý và giám sát việc học của chính mình. Cụ thể hơn, tác giả trên cho rằng một người học được đánh giá là một người tự học khi người đó có thể tự đặt ra mục tiêu và mục đích học tập cho chính mình, tự chọn tài liệu, phương pháp và bài tập, cũng như tiêu chí để đánh giá cho người đó. Còn theo định nghĩa của David Little, khả năng tự học chủ yếu là mối quan hệ tâm lý của người học với quá trình và nội dung học tập - khả năng tách rời, phản ánh, phê bình, ra quyết định, và hành động độc lập (Little, 1991). Nhìn chung, thuật ngữ tự học đã được sử dụng dưới ít nhất năm góc độ (Benson & Voller, 1997) 1. Cho các tình huống trong đó người học tự học hoàn toàn; 2. Cho một bộ các kỹ năng có thể được học và áp dụng trong cách học tập mà người học tự định hướng; 3. Cho khả năng bẩm sinh mà giáo dục bắt phải thay đổi; 4. Cho những bài tập thuộc về trách nhiệm của người học để phát triển việc học của mình; 5. Cho quyền của người học tự định hướng việc học của mình. 2.2. Những nét cơ bản về cách mạng công nghiệp 4.0 Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 4 Cụm từ này bắt nguồn tại Cộng hòa Liên bang Đức vào đầu thế kỉ 21, là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian mạng, Internet vạn vật và điện toán đám mây. Qua đó, người ta tạo ra những hệ thống thông minh với tổ hợp máy móc tự kết nối với nhau, tự tổ chức và quản lí. Đây còn được gọi là cuộc cách mạng số, vì chúng ta sẽ được chứng kiến công cuộc “số hóa” thế giới thực thành thế giới ảo. Đến một lúc nào đó, lằn ranh giữa hai thế giới này sẽ bị xóa mờ. Giờ đây, kiến thức là vô biên, việc học không có điểm dừng. Yêu cầu ngày càng cao đó không cho phép người lao động luôn học tập tại trường hay có giáo viên kèm cặp. Lao động nghề, lao động trình độ thấp phải không ngừng trau dồi để nâng cao tay nghề, làm sao để năng suất tối ưu hơn những dây chuyền sản xuất tự động. Lao động trình độ cao, bác sĩ, kĩ sư, giáo viên cũng phải không ngừng học hỏi, không ngừng cầu tiến, vì sự phát triển của máy móc đang theo rất sát đằng sau. (Kenh14.Vn, 2017). 2.3. Những ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc học ngoại ngữ Theo nhận định của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam tại sự kiện Đối thoại chính sách cao cấp về phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số (thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0) diễn ra vào 15/05/2017, một trong những mối đe dọa mà người lao động đang đối mặt là nguy cơ thất nghiệp. Để đối mặt với mối đe dọa này, người lao động phải có khả năng làm chủ máy móc và có khả năng kết nối, hội nhập được với thế giới. Điều này lại đặt ra yêu cầu đối với người lao động và cả thách thức đối với ngành giáo dục là đào tạo ra đội ngũ lao động phải giỏi ngoại ngữ và thành thạo về công nghệ thông tin (Ngụy An, 2017). Hơn nữa, trong những nhiệm vụ cần phải thực hiện theo quyết định số 1400/QĐ-TTG ngày 30/09/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án ‘Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020’, tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển năng lực ngoại ngữ là một trong số những nhiệm vụ cần phải được thực hiện. Như vậy, hơn bao giờ hết, trong thời đại công nghiệp 4.0 đã được đề cập ở trên, với sự bùng nổ mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, việc ứng dụng những thành tựu này vào việc giảng dạy và học tập không thể không diễn ra. Chắc chắn rằng, những công cụ truyền thông và công nghệ thông tin sẽ giúp cho việc học tập và giảng dạy nói chung, ngoại ngữ - tiếng Anh nói riêng trở nên hiệu quả, thuận lợi, và tiết kiệm nhiều nguồn tài nguyên khác nhau cho người dạy cũng như người học (Celik, 2013). Vì thế, những hỗ trợ tích cực và vô giá của tri thức công nghệ trong thời kỳ công nghiệp 4.0 là điều sinh viên cần nhận thức và áp dụng một cách hiệu quả để có thể thích nghi và tồn tại bền vững trong tình hình mới. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, thống kê, mô tả trên nền tảng dữ liệu và thông tin thứ cấp từ những tài liệu, bài viết hay các bài nghiên cứu khoa học khác nhau về quá trình tự học và thúc đẩy tinh thần tự học của các tác giả, chuyên gia, hoặc các nhà giáo dục khác nhau. Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 5 Hơn nữa, để tăng tính thực tiễn và giá trị cho bài viết, tác giả đã áp dụng phương pháp điều tra khảo sát thông qua bảng hỏi được sao in và phát ra để sinh viên trả lời trực tiếp trên phiếu nhằm khai thác các mục tiêu đã được đề cập ở mục 1. Mặc dù cách làm này sẽ khá mất thời gian và tốn kém về chi phí, nhưng tác giả tin rằng nó sẽ thu được câu trả lời đáng tin cậy hơn so với phương pháp trả lời bảng hỏi sử dụng công nghệ để hỗ trợ. Đối tượng nghiên cứu của tác giả là sinh viên đại học Ngoại Thương ở 4 lớp mà tác giả đang giảng dạy, thuộc 2 chuyên ngành khác nhau, gồm năm 2 và năm 3. Với 182 phiếu khảo sát đã được thu thập, trải qua quá trình lựa chọn nghiêm ngặt để loại bỏ những phiếu trả lời có độ tin cậy kém, tác giả thu nhận được 137 phiếu hợp lệ. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc đánh giá, tác giả chỉ nhập ngẫu nhiên câu trả lời của 100 phiếu, sử dụng phần mềm Excel và phân tích kết quả từ 100 phiếu này. Từ đó, tác giả rút ra những kết luận và bài học hợp lý, cùng với những đề xuất mang tính thực tiễn để giúp nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh cho sinh viên, đáp ứng mục tiêu học tập trước mắt và lâu dài cho sinh viên tại trường nói riêng, và những đòi hỏi về chất lượng con người nói chung của xã hội. Mô tả bảng câu hỏi để khảo sát: gồm 3 phần. Tên phần Mục đích Phần A. Thông tin cá nhân Nhận được thông tin khái quát của người được khảo sát Phần B. Thực tiễn sử dụng công cụ truyền thông và công nghệ thông tin của sinh viên trong việc học tiếng Anh Tìm hiểu mục đích sử dụng công cụ truyền thông và công nghệ thông tin của sinh viên để phân tích thế mạnh của các công cụ và phương tiện này trong từng kỹ năng của quá trình học tiếng Anh của sinh viên Phần C. Đánh giá về hiệu quả, ý nghĩa của việc sử dụng công cụ truyền thông và công nghệ thông tin để tự học tiếng Anh Rút ra nhận định từ ý kiến và đánh giá của người được khảo sát về tác động và ý nghĩa của công cụ truyền thông và công nghệ thông tin đối với việc tự học các kỹ năng trong tiếng Anh; từ đó tác giả có cơ sở để đưa ra những đề xuất của mình. Đặc điểm của cấu trúc các câu hỏi trong bảng khảo sát: - Thể hiện tính thống nhất của dữ liệu nhằm đánh giá độ trung thực của câu trả lời. - Thể hiện tính ràng buộc của dữ liệu nhằm đánh giá độ tin cậy của dữ liệu. - Kích thích và định hướng cho người tham gia khảo sát trong thái độ và hành động nhằm phát triển tính tự học để phát triển các kỹ năng tiếng Anh ở các em. Như vậy, mục đích của bảng hỏi nhằm trả lời cho các mục đích chính của vấn đề nghiên cứu của tác giả như đã đề cập ở phần 1. 4. Kết quả nghiên cứu Trên cơ sở số liệu thống kê đã được thu thập từ bảng hỏi, những bảng biểu sau đã được rút ra. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những ý kiến phân tích và đánh giá cùng với những đề xuất hợp lý dựa trên tính khả thi từ thực tiễn cho những lớp học mà tác giả đã khảo sát, hoặc mang Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 6 tính tham khảo cho các đồng nghiệp đang giảng dạy những lớp học có sinh viên với trình độ tiếng Anh tương tự (khá, giỏi chiếm tỉ lệ cao). Bảng 1. Năng lực ngoại ngữ do tự sinh viên đánh giá Năng lực Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém Số sinh viên 12 61 27 0 Bảng 2. Kết quả điểm trung bình môn tiếng Anh của các em ở trung học phổ thông Điểm 9-10 7-8 5-6 Dưới 5 Số sinh viên 64 35 1 0 Bảng 3. Thời gian tự học các kỹ năng tiếng Anh có sử dụng CCTT và CNTT Với (1): Thời gian tự học các kỹ năng tiếng Anh (phút/ ngày) (1) 15 30 45 60 75 90 105 120 135 150 180 210 240 270 300 330 Số sinh viên 100 92 75 71 31 17 16 8 5 4 4 3 Bảng 4. Nhận định của sinh viên về tầm quan trọng của CCTT và CNTT trong việc rèn luyện các kỹ năng tiếng Anh Mức độ a. Rất cần thiết b. Cần thiết c. Bình thường d. Tương đối cần thiết e. Không cần thiết Số sinh viên 69 25 1 5 0 = 94 Bảng 5. CCTT và CNTT tạo động lực cho người tham gia học tiếng Anh Đánh giá a. Rất đúng b. Đúng c. Trung lập d. Không đúng lắm e. Hoàn toàn không đúng Số sinh viên 22 50 21 7 0 = 72 Bảng 6. Khả năng tập trung khi sử dụng các CCTT và CNTT trong việc học các kỹ năng tiếng Anh (không bị tác động bởi các kênh thông tin khác như giải trí, quảng cáo hay trò chơi) Đánh giá a. Rất tập trung b. Tập trung c. Trung lập d. Không tập trung lắm e. Hoàn toàn không tập trung Số sinh viên 5 30 35 30 0 Bảng 7. Tính phổ biến của các phần mềm, trang mạng hay kênh truyền thông để học các kỹ năng tiếng Anh Phần mềm, trang mạng hay kênh truyền thông (dành cho các kỹ năng chính như luyện nghe, nói, đọc, viết, phát âm) Số sinh viên Youtube 98 Facebook 65 Google translate 56 Ted.com 55 BBC 42 VOA 41 Zing.mp3 36 Elsa speak 15 CNN 13 Skype 11 Tự điển Oxford 80 Cambridge 40 Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 7 Flat 40 LacViet 23 Vdict 22 Bảng 8. Biết về CCTT và CNTT qua các nguồn Nguồn a. Giáo viên b. Bạn bè c. Cha mẹ d. Bản thân tự phát hiện e. Khác Số sinh viên 42 76 2 80 5 Bảng 9. Người tham gia có thể tự học các kỹ năng tiếng Anh sau mà không cần có sự hướng dẫn của giáo viên (/100) (câu hỏi mang tính lựa chọn nếu sinh viên không tự học kỹ năng này) Đánh giá/ kỹ năng a. Rất đúng b. Đúng c. Trung lập d. Không đúng lắm e. Hoàn toàn không đúng (1) Tra nghĩa của từ/ cách dùng từ 33 49 9 4 0 = 82 (2) Luyện phát âm 25 32 29 9 1 = 57 (3) Học từ vựng 20 48 21 8 1 = 68 (4) Làm bài tập ngữ pháp 3 17 30 35 9 = 20 (5) Luyện kỹ năng nghe 25 45 21 6 1 = 70 (6) Luyện kỹ năng nói 9 12 34 32 7 = 21 (7) Luyện kỹ năng đọc 9 26 29 28 3 = 35 (8) Luyện kỹ năng viết 0 10 12 50 22 = 10 (9) Mở rộng kiến thức 21 29 28 15 5 = 50 5. Thảo luận và đề xuất Sau khi xem xét mối quan hệ giữa các dữ liệu, chúng tôi rút ra những nhận định và đề xuất như sau: 1. Lý do tác giả đề cập đến trình độ tiếng Anh của người tham gia khảo sát là để tìm hiểu về mối quan hệ giữa năng lực ngoại ngữ và khả năng tự học của sinh viên, cũng như nhận định về tính thuyết phục trong sự đánh giá của sinh viên và kết quả rút ra được gồm: 12/100 Giỏi, 61/100 Khá, và 27/100 Trung bình, 0/100 Yếu/Kém (theo Bảng 1). Điều này có thể là một sự khiêm tốn trong cách đánh giá của người tham gia vì kết quả điểm trung bình môn tiếng Anh của sinh viên ở trung học phổ thông tốt hơn đáng kể so với nhận định của chính sinh viên (Bảng 2): 64/100 đạt 9-10 điểm, 35/100 đạt 7-8 điểm, 1/100 đạt 5-6 điểm và 0 sinh viên đạt điểm dưới 5. 2. Điều này cũng được khẳng định một cách rõ ràng khi sinh viên tham gia khảo sát thể hiện thời gian tự học các kỹ năng ngoại ngữ (có sử dụng CCTT và CNTT) trong Bảng 3 là khá tốt, với hơn 70 sinh viên tham gia (hơn 70%) tự học có sử dụng CCTT và CNTT trên 60 phút/ Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 8 ngày. Như vậy, có thể khẳng định là những sinh viên khá, giỏi này đã thể hiện tinh thần tự học khá tốt, chưa kể đến việc sử dụng các phương tiện, công cụ phi công nghệ khác. 3. Hơn nữa, kết quả khảo sát của Bảng 4 và Bảng 5 đã khẳng định tính hợp lý trong câu trả lời của Bảng 2 và giúp xác nhận một cách định lượng giá trị của CCTT và CNTT trong phát triển các kỹ năng tiếng Anh cho sinh viên, khi mà 94% (Bảng 4) sinh viên khẳng định tầm quan trọng của các công cụ hỗ trợ này, và khả năng tạo động lực để tự học tiếng Anh rất cao của các công
File đính kèm:
- nang_cao_hieu_qua_tu_hoc_tieng_anh_qua_viec_su_dung_truyen_t.pdf