Một số vấn đề lí luận về chuẩn đầu ra môn tiếng Anh ở các trường đại học không chuyên ngữ

Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn

bản, toàn diện GD-ĐT cũng như luôn coi phát triển giáo

dục là quốc sách hàng đầu, Văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục

đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-

ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực

của người học” [1]. Trong tổ chức thực hiện quản lí dạy

học môn Tiếng Anh đáp ứng chuẩn đầu ra (CĐR) ở các

trường đại học, công tác giám sát quá trình dạy học cũng

đóng vai trò quan trọng. Công tác giám sát giúp các cơ

quan quản lí tìm ra những hạn chế, thiếu sót, tồn đọng, từ

đó có biện pháp nhằm phát huy những mặt mạnh, tích

cực để nâng cao chất lượng công tác quản lí. Nội dung

giám sát tập trung chủ yếu vào việc giám sát hoạt động

giảng dạy của giảng viên và hoạt động học tập của sinh

viên (SV) cũng như giám sát việc thực hiện các quy trình,

quy chế dạy học. Thực tiễn cho thấy, nếu làm tốt việc này

sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng

dạy học nói chung và quản lí dạy học môn Tiếng Anh

đáp ứng CĐR nói riêng ở các trường đại học không

chuyên ngữ

pdf5 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 732 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lí luận về chuẩn đầu ra môn tiếng Anh ở các trường đại học không chuyên ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 
262 
Email: truongtoloanspnttw@gmail.com 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CHUẨN ĐẦU RA MÔN TIẾNG ANH 
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN NGỮ 
Trương Tố Loan - Nghiên cứu sinh K2016-2019, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng 
Ngày nhận bài: 28/6/2019; ngày chỉnh sửa: 15/7/2019; ngày duyệt đăng: 24/7/2019. 
Abstract: The learning outcome of English as a subject at non-specialized language universities 
is an expected language competence that learners can have after the course in order to prove their 
knowledge, skills or linguistic proficiency. The article presents some theoretical issues about the 
outcome standards at non-specialized universities to ensure that the curriculum and teaching 
content are close to reality and consistent with the defined English learning outcome standards, 
ensuring the right objectives and training requirements of universities. 
Keywords: The learning outcome, English, non-specialized language universities. 
1. Mở đầu 
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn 
bản, toàn diện GD-ĐT cũng như luôn coi phát triển giáo 
dục là quốc sách hàng đầu, Văn kiện Đại hội đại biểu 
toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục 
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-
ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực 
của người học” [1]. Trong tổ chức thực hiện quản lí dạy 
học môn Tiếng Anh đáp ứng chuẩn đầu ra (CĐR) ở các 
trường đại học, công tác giám sát quá trình dạy học cũng 
đóng vai trò quan trọng. Công tác giám sát giúp các cơ 
quan quản lí tìm ra những hạn chế, thiếu sót, tồn đọng, từ 
đó có biện pháp nhằm phát huy những mặt mạnh, tích 
cực để nâng cao chất lượng công tác quản lí. Nội dung 
giám sát tập trung chủ yếu vào việc giám sát hoạt động 
giảng dạy của giảng viên và hoạt động học tập của sinh 
viên (SV) cũng như giám sát việc thực hiện các quy trình, 
quy chế dạy học. Thực tiễn cho thấy, nếu làm tốt việc này 
sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng 
dạy học nói chung và quản lí dạy học môn Tiếng Anh 
đáp ứng CĐR nói riêng ở các trường đại học không 
chuyên ngữ. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Chuẩn đầu ra môn Tiếng Anh ở các trường đại học 
không chuyên ngữ 
2.1.1 Mục đích 
CĐR nói chung và CĐR môn Tiếng Anh nói riêng 
ở các trường đại học không chuyên ngữ là một quy định 
bắt buộc để đảm bảo điều kiện tốt nghiệp của SV theo 
Luật Giáo dục đại học và quy định của nhà trường. 
Ngoài các kiến thức, kĩ năng SV đã được học và tích 
luỹ trong chương trình đào tạo, SV phải đạt chuẩn về 
trình độ môn Tiếng Anh theo quy định và lộ trình thực 
hiện của nhà trường. 
CĐR môn Tiếng Anh là cơ sở hỗ trợ, công tác đảm 
bảo chất lượng và hình thành các chuẩn đào tạo, gắn kết 
giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học, tạo điều kiện 
học liên thông và học suốt đời... Thông qua CĐR để 
giới thiệu với xã hội năng lực đào tạo của nhà trường, 
tạo được niềm tin trong SV, phụ huynh, người sử dụng 
lao động; tăng cường khả năng hợp tác giữa nhà trường 
với xã hội; SV sẽ được tăng cường cơ hội học tập, cơ 
hội việc làm... 
Các trường đại học thuộc Bộ GD-ĐT cũng như các 
trường đại học thuộc Bộ Công Thương (Trường Đại học 
Công nghiệp Hà Nội) đã đưa ra đề án, kế hoạch về việc 
tổ chức học tập, giảng dạy và thi cử môn Tiếng Anh 
nhằm đáp ứng CĐR. 
Căn cứ vào: 
- Công văn số 5957/BGDĐT-GDĐH ngày 
20/10/2014 về việc hướng dẫn dạy và học ngoại ngữ tăng 
cường trong các trường đại học, cao đẳng, học viện và 
các trường sĩ quan có đào tạo trình độ đại học, cao đẳng; 
- Công văn số 808/KH-BGDĐT ngày 16/8/2012 về 
kế hoạch triển khai Đề án Ngoại ngữ 2020 trong các cơ 
sở giáo dục đại học giai đoạn 2012-2020; 
- Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 về 
phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống 
giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”; 
- Công văn số 7274/BGDĐT-GDĐH ngày 
31/10/2012 hướng dẫn thực hiện kế hoạch triển khai đề 
án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 trong các cơ sở giáo dục 
đại học; 
- Quyết định số 729/QĐ-BGDĐT ngày 11/3/2015 
ban hành Định dạng đề thi đánh giá năng lực sử dụng 
tiếng Anh từ bậc 3 đến bậc 5 theo Khung năng lực ngoại 
ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam; 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 
263 
- Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014 
ban hành Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt 
Nam; 
- Quyết định số 1723/QĐ-ĐHSPNTTW-ĐT ngày 
21/11/2014 về việc ban hành Quy định CĐR tiếng Anh 
các ngành, hệ đào tạo không chuyên tại Trường Đại học 
Sư phạm Nghệ thuật Trung ương; 
- Quyết định số 242/QĐ-ĐHSPNTTW-ĐT ngày 
10/02/2015 về việc ban hành Quy định dạy và học ngoại 
ngữ không chuyên tại Trường Đại học Sư phạm Nghệ 
thuật Trung ương; 
Dựa vào các thông tư, công văn, quyết định... của Bộ 
GD-ĐT cùng quy chế ban hành cụ thể của các trường đại 
học không chuyên ngoại ngữ, có thể thấy: 
- Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông phải đạt 
bậc 2; SV hệ cao đẳng, đại học không chuyên ngữ phải 
đạt năng lực ngoại ngữ bậc 3 theo Khung năng lực ngoại 
ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Tuy nhiên năng lực ngoại 
ngữ đầu vào của SV rất khác nhau và chưa đạt chuẩn. Bộ 
GD-ĐT hướng dẫn các trường triển khai dạy tăng cường 
ngoại ngữ cho SV để đạt CĐR theo thực tế tùy theo 
ngành nghề đào tạo và điều kiện của từng trường nhưng 
phải hướng tới sớm đạt chuẩn như mục tiêu của Đề án 
2020. 
- Nhà trường công bố công khai CĐR về ngoại ngữ 
và các loại chứng chỉ được chấp nhận. 
- Nội dung học, giáo trình, tài liệu và hình thức triển 
khai phải đa dạng, phù hợp với yêu cầu, điều kiện thực tế 
từng trường. 
- Khuyến khích sử dụng giảng viên, tình nguyện viên 
bản ngữ tham gia giảng dạy. 
- Chú trọng sử dụng công nghệ thông tin. 
- Việc thu học phí dạy tăng cường không tính cho nội 
dung chương trình đào tạo bắt buộc, thu theo nguyên tắc 
thoả thuận với người học, đảm bảo bù đắp chi phí. 
Như vậy, ngoài việc ban hành các văn bản thì Bộ GD-
ĐT cũng không đưa ra các yêu cầu, hướng dẫn cụ thể hay 
những mô hình thành công mà chỉ là những hướng dẫn, 
gợi ý để các trường thực hiện Đề án 2020 theo điều kiện, 
năng lực cụ thể của mình. 
2.1.2. Nội dung 
Sự thay đổi về vai trò, vị trí của môn Tiếng Anh (đã 
trở thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế - World Englishes, 
International Language) với các biến thể khác nhau đã 
làm cho nội dung, mục tiêu và phương pháp dạy học phải 
thay đổi để đáp ứng nhu cầu sử dụng môn Tiếng Anh 
trong giao tiếp. Ví dụ, trước đây khi lấy mô hình bản ngữ 
hoặc tương tự bản ngữ (Native-like) làm chuẩn thì nội 
dung giảng dạy tập trung vào độ chính xác của ngôn ngữ 
hơn là khả năng diễn đạt ý của người nói. Theo mô hình 
này thì việc truyền đạt văn hóa của các nước bản ngữ 
cũng khó khăn do những tiết chế văn hóa này lạ lẫm, nằm 
ngoài vùng kiến thức nền của người học. Khi môn Tiếng 
Anh chuyển thành ngôn ngữ quốc tế thì việc dạy học theo 
chuẩn bản ngữ không còn là nội dung chính của quá trình 
giảng dạy mà nội dung tập trung sang phát triển kĩ năng 
giao tiếp cho người học dựa trên những hiểu biết về văn 
hóa của chính người học và những nước mà người học 
có thể sẽ tiếp cận. Việc không tập trung vào độ chính xác 
mà tập trung hơn vào việc phát triển độ trôi chảy sẽ tạo 
thêm động lực cho người học tham gia vào quá trình giao 
tiếp và học môn Tiếng Anh. Theo đó, việc dạy dỗ sẽ tập 
trung vào phát triển các kĩ năng giúp người học nhận ra 
thông điệp “Intelligibility”, hiểu thông điệp 
“Comprehensibility”, hiểu được ý nghĩa của thông điệp 
trong những văn cảnh cụ thể (Interpretability) và thể hiện 
được suy nghĩ, hiểu biết của mình (Express one’s 
meaning) hơn là truyền đạt các kiến thức ngôn ngữ mang 
tính sách vở. 
Trước đây, phương pháp dạy học coi bộ não người 
học như một hộp đen (Black box), trong đó quá trình 
giảng dạy là quá trình truyền tải kiến thức, thông tin lấp 
đầy bộ nhớ đó và kiến thức, thông tin học được được đo 
bằng khối lượng kiến thức, thông tin mà người dạy 
truyền thụ, việc hình thành kĩ năng chủ yếu là do tập 
luyện theo mô hình có sẵn; vì vậy, phương pháp Ngữ 
pháp - Dịch được coi là phù hợp. Tuy nhiên, với sự ra đời 
của học thuyết văn hóa xã hội thì người học là chủ thể 
của hoạt động, giáo viên và nhà trường phải tạo ra môi 
trường để người học hoạt động, tự lĩnh hội được kiến 
thức, kĩ năng. Kiến thức được đo qua năng lực thực hiện, 
ứng phó với các ngữ cảnh cụ thể (Performance-based 
assessment) hơn là đo xem SV nhớ được bao nhiêu phần 
kiến thức mà người thầy truyền đạt. Với giảng dạy ngoại 
ngữ thì ngoài việc cung cấp dữ liệu (Input), thì người dạy 
và nhà trường phải tạo được môi trường để SV giao tiếp 
với thầy cô, bạn bè và các đối tượng khác (Interaction) 
thì người học mới có thể sử dụng tốt môn Tiếng Anh 
trong giao tiếp (Output). 
Cùng với sự phát triển của phương pháp dạy học thì 
công nghệ thông tin cũng có những tiến bộ vượt bậc để 
trợ giúp cũng như tác động trở lại với phương pháp dạy 
học của giáo viên. Ví dụ như việc sử dụng các video, 
presenter, internet thì người học hoàn toàn có thể tự học 
được phần kiến thức ngôn ngữ (từ vựng, ngữ pháp, ngữ 
âm). Như vậy, giảng viên sẽ không còn là người cung 
cấp những kiến thức ngôn ngữ đó trên lớp mà giảng viên 
phải tổ chức các hoạt động để giúp SV củng cố các kiến 
thức ngôn ngữ đó, áp dụng kiến thức đó để phát triển kĩ 
năng giao tiếp. Phương pháp học kết hợp (E-learning 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 
264 
được sử dụng như một bộ phận không thể tách rời trong 
các lớp học truyền thống) được coi là một cuộc cách 
mạng trong công nghệ đào tạo khi nó đã được chứng 
minh là mang lại hiệu quả về chất lượng và giá thành đào 
tạo. Tuy nhiên, những rào cản lớn nhất để áp dụng 
phương pháp này là: quan điểm, khả năng giảng dạy của 
giảng viên; ý thức học của học viên và việc phải thiết kế 
lại mục tiêu, chương trình đào tạo. 
Việc chuyển đổi mô hình giáo dục đại học từ đại học 
tinh hoa (chỉ tuyển chọn số ít người học có khả năng và 
động lực học) sang giáo dục đại chúng (tuyển nhiều SV 
với khả năng, trình độ, ý thức học khác nhau để nâng cao 
trình độ lao động cho toàn xã hội) và việc SV ngày nay 
có trình độ công nghệ thông tin cũng như phụ thuộc vào 
công nghệ thông tin đã khiến mục tiêu, phương pháp đào 
tạo phải thay đổi. Ví dụ như trước kia, người thầy quan 
tâm nhiều hơn đến truyền đạt kiến thức còn việc sử dụng 
kiến thức đó phần lớn phụ thuộc vào sự tích cực của 
người học. Hiện nay, người thầy cần phải quan tâm sát 
sao tới nhu cầu của các nhóm người học khác nhau 
(Individualised instruction) để kích thích các đối tượng 
khác nhau theo đuổi những mục tiêu cá nhân khác nhau. 
Vì vậy, nhu cầu của người học cũng cần phải được quan 
tâm trong quá trình xây dựng mục tiêu, chương trình và 
tổ chức các hoạt động giảng dạy. 
Việc giáo dục nghề nghiệp gắn với nhu cầu sử dụng 
cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu và nội dung giảng dạy 
môn Tiếng Anh. Nội dung giảng dạy cần gắn với môi 
trường mà người học sẽ sử dụng khi hành nghề (English 
for Occupational Purpose) hơn là việc trang bị kiến thức 
môn Tiếng Anh nói chung (môn Tiếng Anh cơ bản - 
General English). 
Vì vậy, việc thay đổi mục tiêu, chương trình, nội 
dung giảng dạy và kiểm tra, đánh giá theo định hướng 
nghề nghiệp với sự kết hợp của e-learning là điều tất yếu. 
Để đạt được hiệu quả thì cần phải có: 
- Nghiên cứu cụ thể về yêu cầu sử dụng môn Tiếng 
Anh của SV khi đi làm (Target needs). 
- Nhu cầu học của SV (Present needs). 
- Thiết kế lại mục tiêu, chương trình, tài liệu giảng 
dạy theo hướng phát huy điểm mạnh của mỗi môi trường 
học tập (Online và offline). 
- Bồi dưỡng giảng viên trên cơ sở phân tích nhu cầu 
hiện tại (giảng viên có khó khăn, điểm yếu gì về kiến 
thức, kĩ năng,... khi thực hiện chương trình). 
- Trang bị cơ sở vật chất để thực hiện chương trình. 
Tóm lại, để đáp ứng yêu cầu đào tạo ở các trường đại 
học nói chung cũng như quản lí dạy học môn Tiếng Anh 
ở các trường đáp ứng CĐR cần chú ý: 
- SV nắm kiến thức môn Tiếng Anh và có kĩ năng 
giao tiếp trong các tình huống với chủ đề xã hội, công 
việc và văn hóa giáo dục. Ví dụ: Trong tình huống ở sân 
bay, khi giao tiếp phải hiểu được người bản ngữ nói gì; 
thực hiện giao tiếp tối thiểu để nêu lên được nhu cầu hay 
yêu cầu của mình. 
- Về nghe nói: Nghe hiểu được một hội thoại đơn giản 
trong môi trường công sở hay nơi công cộng, bệnh viện, 
nhà ga, sân bay. 
- Kết quả dự kiến: Tiến hành được hội thoại bằng 
tiếng Anh về bản thân, gia đình, bạn bè,... 
- Kĩ năng viết: Viết được một bức thư trong môi 
trường cơ quan, công sở (xin nghỉ ốm, có công việc) hay 
viết được nội dung tin nhắn. 
- Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được một văn bản với nội 
dung quen thuộc trong khoảng 600-700 từ (biết xem, đọc 
các hướng dẫn sử dụng máy móc, phương tiện...). 
2.1.3. Phương pháp 
SV tiến hành tự học có hướng dẫn của giảng viên, 
theo hình thức ra bài tập về nhà. 
- Kiểm tra: Giảng viên trực tiếp kiểm tra trên lớp hoặc 
qua bài luận gửi trên mạng, tuỳ theo mục tiêu bài học. 
- Hình thức: Cần tạo môi trường tiếng để SV có cơ 
hội giao lưu, giao tiếp bằng tiếng Anh. 
- Giảng viên dạy bài qua mạng khi SV đã có vốn ngôn 
ngữ nhất định. 
- Trên lớp: SV làm việc với nhau theo hình thức cá 
nhân với cá nhân hoặc cá nhân với nhóm. 
2.2. Mục tiêu quản lí dạy học môn Tiếng Anh ở các 
trường đại học không chuyên ngữ đáp ứng chuẩn 
đầu ra 
Dạy học môn Tiếng Anh ở các trường đại học nhằm 
trang bị cho SV kiến thức chuyên ngành theo từng lĩnh 
vực. Ví dụ như tiếng Anh về nghiệp vụ giao nhận; tiếng 
Anh thương mại; Tiếng Anh tài chính - kế toán; tiếng 
Anh công nghệ thông tin,... Trên cơ sở môn Tiếng Anh 
SV đã được học ở trường trung học cơ sở, trung học phổ 
thông mà nhà trường củng cố, ôn tập và có thể phát triển 
ở một mức độ cao hơn. Bên cạnh đó, SV còn có thêm cơ 
hội rèn luyện, phát huy khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, 
tinh thần làm việc hợp tác theo nhóm khả năng nhạy bén 
trong các tình huống. 
Về giáo trình: Một số trường đại học không chuyên 
ngoại ngữ có thể do giảng viên tự biên soạn giáo trình 
môn Tiếng Anh theo chuyên ngành giảng dạy tại các 
trường với chương trình khung của Bộ GD-ĐT hoặc có 
những trường tham khảo một số tài liệu giảng dạy có sẵn 
trên thị trường. Chẳng hạn như cuốn giáo trình “TOIEC” 
là một thể loại khá phù hợp với các trường vì nó cung cấp 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 
265 
những từ có liên quan đến các lĩnh vực nghề nghiệp. Tuy 
nhiên, hiện nay việc áp dụng giáo trình này vào giảng dạy 
chưa được phổ biến. 
Về phương pháp dạy học: Giảng viên chủ yếu sử 
dụng phương pháp vấn đáp, đàm thoại, phương pháp 
hoạt động nhóm để giúp SV khi học môn Tiếng Anh có 
thể phát huy hết khả năng của mình một cách tốt nhất, 
đồng thời phát huy khả năng nhạy bén, tư duy và sáng 
tạo. Phương pháp dạy học có sự hỗ trợ của các phương 
tiện, thiết bị dạy học hiện đại rất cần thiết và hữu ích khi 
giảng dạy ngoại ngữ vì nó tiết kiệm thời gian, có tính 
minh hoạ, trực quan cao, giúp SV khi học ngoại ngữ có 
cơ hội rèn luyện các kĩ năng nói, nghe, kĩ thuật phát âm, 
ngữ điệu,... theo tiếng nói của người bản địa thông qua 
nghe băng, đài hoặc đĩa. Việc mời giảng viên hoặc 
chuyên gia người nước ngoài cộng tác trong giảng dạy 
ngoại ngữ ở các trường còn rất hạn chế. Do đó, nhìn 
chung kĩ năng giao tiếp của SV còn chưa cao. Các em 
phần lớn còn có xu hướng ngại giao tiếp khi gặp người 
nước ngoài, sợ nói sai. Đây là một đặc điểm mà có lẽ các 
trường đại học không chuyên ngoại ngữ cần phải lưu 
tâm. Ngoài ra, thông qua các hoạt động ngoại khoá như 
tổ chức các câu lạc bộ tiếng Anh, festival ngoại ngữ, các 
kì thi Olympic ngoại ngữ,... để SV có thêm cơ hội sử 
dụng và trau dồi kiến thức ngoại ngữ của mình. 
Như vậy, thông qua các phương pháp dạy học môn 
Tiếng Anh, chúng ta có thể thấy các hình thức dạy học 
bộ môn này chủ yếu là hình thức lên lớp, thảo luận, 
hoạt động nhóm, hoạt động ngoại khoá và một hình 
thức nữa không thể thiếu đối với các em SV là hình 
thức học tập ở nhà. 
Hoạt động dạy học ngoại ngữ ở các trường đại học 
không chuyên ngữ nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu 
của SV và của xã hội. Tuy nhiên, còn một bộ phận SV 
vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học ngoại 
ngữ, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay (khi mà cơ 
hội xin việc làm trong các công ty nước ngoài hoặc thậm 
chí được đi xuất khẩu lao động rất nhiều...), các em còn 
học chưa đúng, học theo kiểu chống chế, đối phó. Do 
vậy, giảng viên dạy ngoại ngữ nên tìm cho mình những 
cách thức dạy sao cho thực sự lôi cuốn, giúp SV nâng 
cao nhận thức về môn học này. 
Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ 
của các ngành khoa học kĩ thuật, viễn thông và công nghệ 
thông tin cũng như sự phát triển trong quan hệ đối ngoại 
đã làm cho ngoại ngữ càng trở nên cần thiết và mang tính 
chất bắt buộc hơn nhiều với những người có nhu cầu 
tuyển dụng. 
Với Việt Nam, khi chính thức trở thành thành viên 
của tổ chức thương mại thế giới và là điểm đến để tổ chức 
nhiều sự kiện mang tính chất chuyên nghiệp và tầm cỡ 
quốc tế như: Hội nghị thượng đỉnh Châu Á - Thái Bình 
Dương (APEC), các cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt 
và đặc biệt là cuộc thi hoa hậu hoàn vũ thế giới được tổ 
chức tại Nha Trang, Khánh Hoà đã thu hút rất nhiều du 
khách nước ngoài đến Việt Nam. Chính xu thế hội nhập 
hiện nay đã tạo ra nhiều thời cơ cũng như những thách 
thức to lớn cho đất nước. Đối với ngành Giáo dục, việc 
quan tâm, quản lí, chú trọng đến hoạt động dạy ngoại ngữ 
càng cần được lưu ý hơn bao giờ hết. Đặc biệt ở các 
trường đại học thì hoạt động dạy ngoại ngữ trong xu thế 
hội nhập có vai trò vô cùng to lớn, nó góp phần đáp ứng 
được mục tiêu của nhà trường là đào tạo ra những cử 
nhân, kĩ thuật viên, kĩ sư,... có trình độ nhất định về ngoại 
ngữ (mà phổ biến là tiếng Anh) bên cạnh trình độ chuyên 
môn và năng lực phẩm chất của bản thân. Ngoại ngữ ở 
các trường đại học có xu hướng thiên về giao tiếp nhiều 
hơn, chú trọng đến ngoại ngữ chuyên ngành, giúp cho 
SV sau khi ra trường có thể sử dụng để phục vụ ngay cho 
công việc của mình. 
Bên cạnh đó, có một số trường đại học còn có hình 
thức tổ chức cho SV học ở nước ngoài hay liên kết đào 
tạo cử nhân nên ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói 
riêng rất cần thiết được trang bị cho SV. Trong xu thế hội 
nhập hiện nay thì cơ hội tìm việc làm trong các công ty 
liên doanh trong nước và các doanh nghiệp ở nước ngoài 
đang mở ra rất nhiều triển vọng cho SV. Do đó, việc dạy 
ngoại ngữ sẽ giúp trang bị cho SV phương tiện giao tiếp 
thông dụng cũng như chuyên ngành được đào tạo để các 
em được thuận lợi hơn trong khi làm việc với đối tác 
nước ngoài, góp phần nâng cao hiệu quả lao động. 
Như vậy, việc dạy ngoại ngữ ở các trường đại học nói 
chung, đại học không chuyên ngữ nói riêng không chỉ có 
vai trò thoả mãn nhu cầu giao tiếp thông thường mà còn 
giúp SV sau khi ra trường sẽ tự tin hơn trong công việc 
khi giao tiếp và làm việc với các đối tác nước ngoài. 
3. Kết luận 
Để dạy học môn Tiếng Anh đáp ứng CĐR ở các 
trường đại học không chuyên ngữ, các trường cần thường 
xuyên làm tốt công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch 
dạy học, chương trình nội dung dạy học, trong đó đi sâu 
kiểm tra việc giảng viên giảng dạy và thực hiện kế hoạch 
(bao gồm thời gian, lịch trình, phương pháp, phương 
tiện) đảm bảo chương trình, nội dung dạy học sát với 
thực tiễn và phù hợp với CĐR môn Tiếng Anh đã được 
xác định, đảm bảo đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của 
các trường đại học đặt ra. 
(Xem tiếp trang 255) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 250-255 
255 
2.4. Kết quả ứng dụng phương pháp khảo sát sử dụng 
Google biểu mẫu và nhóm kín Facebook 
Với yêu cầu cần khảo sát tình hình việc làm của 70 
SV sau khi tốt nghiệp, tác g

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_li_luan_ve_chuan_dau_ra_mon_tieng_anh_o_cac_tr.pdf