Một số vấn đề lí luận về chuẩn đầu ra môn tiếng Anh ở các trường đại học không chuyên ngữ
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn
bản, toàn diện GD-ĐT cũng như luôn coi phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-
ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực
của người học” [1]. Trong tổ chức thực hiện quản lí dạy
học môn Tiếng Anh đáp ứng chuẩn đầu ra (CĐR) ở các
trường đại học, công tác giám sát quá trình dạy học cũng
đóng vai trò quan trọng. Công tác giám sát giúp các cơ
quan quản lí tìm ra những hạn chế, thiếu sót, tồn đọng, từ
đó có biện pháp nhằm phát huy những mặt mạnh, tích
cực để nâng cao chất lượng công tác quản lí. Nội dung
giám sát tập trung chủ yếu vào việc giám sát hoạt động
giảng dạy của giảng viên và hoạt động học tập của sinh
viên (SV) cũng như giám sát việc thực hiện các quy trình,
quy chế dạy học. Thực tiễn cho thấy, nếu làm tốt việc này
sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
dạy học nói chung và quản lí dạy học môn Tiếng Anh
đáp ứng CĐR nói riêng ở các trường đại học không
chuyên ngữ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 262 Email: truongtoloanspnttw@gmail.com MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CHUẨN ĐẦU RA MÔN TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN NGỮ Trương Tố Loan - Nghiên cứu sinh K2016-2019, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng Ngày nhận bài: 28/6/2019; ngày chỉnh sửa: 15/7/2019; ngày duyệt đăng: 24/7/2019. Abstract: The learning outcome of English as a subject at non-specialized language universities is an expected language competence that learners can have after the course in order to prove their knowledge, skills or linguistic proficiency. The article presents some theoretical issues about the outcome standards at non-specialized universities to ensure that the curriculum and teaching content are close to reality and consistent with the defined English learning outcome standards, ensuring the right objectives and training requirements of universities. Keywords: The learning outcome, English, non-specialized language universities. 1. Mở đầu Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT cũng như luôn coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD- ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học” [1]. Trong tổ chức thực hiện quản lí dạy học môn Tiếng Anh đáp ứng chuẩn đầu ra (CĐR) ở các trường đại học, công tác giám sát quá trình dạy học cũng đóng vai trò quan trọng. Công tác giám sát giúp các cơ quan quản lí tìm ra những hạn chế, thiếu sót, tồn đọng, từ đó có biện pháp nhằm phát huy những mặt mạnh, tích cực để nâng cao chất lượng công tác quản lí. Nội dung giám sát tập trung chủ yếu vào việc giám sát hoạt động giảng dạy của giảng viên và hoạt động học tập của sinh viên (SV) cũng như giám sát việc thực hiện các quy trình, quy chế dạy học. Thực tiễn cho thấy, nếu làm tốt việc này sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và quản lí dạy học môn Tiếng Anh đáp ứng CĐR nói riêng ở các trường đại học không chuyên ngữ. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Chuẩn đầu ra môn Tiếng Anh ở các trường đại học không chuyên ngữ 2.1.1 Mục đích CĐR nói chung và CĐR môn Tiếng Anh nói riêng ở các trường đại học không chuyên ngữ là một quy định bắt buộc để đảm bảo điều kiện tốt nghiệp của SV theo Luật Giáo dục đại học và quy định của nhà trường. Ngoài các kiến thức, kĩ năng SV đã được học và tích luỹ trong chương trình đào tạo, SV phải đạt chuẩn về trình độ môn Tiếng Anh theo quy định và lộ trình thực hiện của nhà trường. CĐR môn Tiếng Anh là cơ sở hỗ trợ, công tác đảm bảo chất lượng và hình thành các chuẩn đào tạo, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học, tạo điều kiện học liên thông và học suốt đời... Thông qua CĐR để giới thiệu với xã hội năng lực đào tạo của nhà trường, tạo được niềm tin trong SV, phụ huynh, người sử dụng lao động; tăng cường khả năng hợp tác giữa nhà trường với xã hội; SV sẽ được tăng cường cơ hội học tập, cơ hội việc làm... Các trường đại học thuộc Bộ GD-ĐT cũng như các trường đại học thuộc Bộ Công Thương (Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội) đã đưa ra đề án, kế hoạch về việc tổ chức học tập, giảng dạy và thi cử môn Tiếng Anh nhằm đáp ứng CĐR. Căn cứ vào: - Công văn số 5957/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2014 về việc hướng dẫn dạy và học ngoại ngữ tăng cường trong các trường đại học, cao đẳng, học viện và các trường sĩ quan có đào tạo trình độ đại học, cao đẳng; - Công văn số 808/KH-BGDĐT ngày 16/8/2012 về kế hoạch triển khai Đề án Ngoại ngữ 2020 trong các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2012-2020; - Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 về phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”; - Công văn số 7274/BGDĐT-GDĐH ngày 31/10/2012 hướng dẫn thực hiện kế hoạch triển khai đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 trong các cơ sở giáo dục đại học; - Quyết định số 729/QĐ-BGDĐT ngày 11/3/2015 ban hành Định dạng đề thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh từ bậc 3 đến bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam; VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 263 - Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014 ban hành Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam; - Quyết định số 1723/QĐ-ĐHSPNTTW-ĐT ngày 21/11/2014 về việc ban hành Quy định CĐR tiếng Anh các ngành, hệ đào tạo không chuyên tại Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương; - Quyết định số 242/QĐ-ĐHSPNTTW-ĐT ngày 10/02/2015 về việc ban hành Quy định dạy và học ngoại ngữ không chuyên tại Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương; Dựa vào các thông tư, công văn, quyết định... của Bộ GD-ĐT cùng quy chế ban hành cụ thể của các trường đại học không chuyên ngoại ngữ, có thể thấy: - Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông phải đạt bậc 2; SV hệ cao đẳng, đại học không chuyên ngữ phải đạt năng lực ngoại ngữ bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Tuy nhiên năng lực ngoại ngữ đầu vào của SV rất khác nhau và chưa đạt chuẩn. Bộ GD-ĐT hướng dẫn các trường triển khai dạy tăng cường ngoại ngữ cho SV để đạt CĐR theo thực tế tùy theo ngành nghề đào tạo và điều kiện của từng trường nhưng phải hướng tới sớm đạt chuẩn như mục tiêu của Đề án 2020. - Nhà trường công bố công khai CĐR về ngoại ngữ và các loại chứng chỉ được chấp nhận. - Nội dung học, giáo trình, tài liệu và hình thức triển khai phải đa dạng, phù hợp với yêu cầu, điều kiện thực tế từng trường. - Khuyến khích sử dụng giảng viên, tình nguyện viên bản ngữ tham gia giảng dạy. - Chú trọng sử dụng công nghệ thông tin. - Việc thu học phí dạy tăng cường không tính cho nội dung chương trình đào tạo bắt buộc, thu theo nguyên tắc thoả thuận với người học, đảm bảo bù đắp chi phí. Như vậy, ngoài việc ban hành các văn bản thì Bộ GD- ĐT cũng không đưa ra các yêu cầu, hướng dẫn cụ thể hay những mô hình thành công mà chỉ là những hướng dẫn, gợi ý để các trường thực hiện Đề án 2020 theo điều kiện, năng lực cụ thể của mình. 2.1.2. Nội dung Sự thay đổi về vai trò, vị trí của môn Tiếng Anh (đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế - World Englishes, International Language) với các biến thể khác nhau đã làm cho nội dung, mục tiêu và phương pháp dạy học phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu sử dụng môn Tiếng Anh trong giao tiếp. Ví dụ, trước đây khi lấy mô hình bản ngữ hoặc tương tự bản ngữ (Native-like) làm chuẩn thì nội dung giảng dạy tập trung vào độ chính xác của ngôn ngữ hơn là khả năng diễn đạt ý của người nói. Theo mô hình này thì việc truyền đạt văn hóa của các nước bản ngữ cũng khó khăn do những tiết chế văn hóa này lạ lẫm, nằm ngoài vùng kiến thức nền của người học. Khi môn Tiếng Anh chuyển thành ngôn ngữ quốc tế thì việc dạy học theo chuẩn bản ngữ không còn là nội dung chính của quá trình giảng dạy mà nội dung tập trung sang phát triển kĩ năng giao tiếp cho người học dựa trên những hiểu biết về văn hóa của chính người học và những nước mà người học có thể sẽ tiếp cận. Việc không tập trung vào độ chính xác mà tập trung hơn vào việc phát triển độ trôi chảy sẽ tạo thêm động lực cho người học tham gia vào quá trình giao tiếp và học môn Tiếng Anh. Theo đó, việc dạy dỗ sẽ tập trung vào phát triển các kĩ năng giúp người học nhận ra thông điệp “Intelligibility”, hiểu thông điệp “Comprehensibility”, hiểu được ý nghĩa của thông điệp trong những văn cảnh cụ thể (Interpretability) và thể hiện được suy nghĩ, hiểu biết của mình (Express one’s meaning) hơn là truyền đạt các kiến thức ngôn ngữ mang tính sách vở. Trước đây, phương pháp dạy học coi bộ não người học như một hộp đen (Black box), trong đó quá trình giảng dạy là quá trình truyền tải kiến thức, thông tin lấp đầy bộ nhớ đó và kiến thức, thông tin học được được đo bằng khối lượng kiến thức, thông tin mà người dạy truyền thụ, việc hình thành kĩ năng chủ yếu là do tập luyện theo mô hình có sẵn; vì vậy, phương pháp Ngữ pháp - Dịch được coi là phù hợp. Tuy nhiên, với sự ra đời của học thuyết văn hóa xã hội thì người học là chủ thể của hoạt động, giáo viên và nhà trường phải tạo ra môi trường để người học hoạt động, tự lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng. Kiến thức được đo qua năng lực thực hiện, ứng phó với các ngữ cảnh cụ thể (Performance-based assessment) hơn là đo xem SV nhớ được bao nhiêu phần kiến thức mà người thầy truyền đạt. Với giảng dạy ngoại ngữ thì ngoài việc cung cấp dữ liệu (Input), thì người dạy và nhà trường phải tạo được môi trường để SV giao tiếp với thầy cô, bạn bè và các đối tượng khác (Interaction) thì người học mới có thể sử dụng tốt môn Tiếng Anh trong giao tiếp (Output). Cùng với sự phát triển của phương pháp dạy học thì công nghệ thông tin cũng có những tiến bộ vượt bậc để trợ giúp cũng như tác động trở lại với phương pháp dạy học của giáo viên. Ví dụ như việc sử dụng các video, presenter, internet thì người học hoàn toàn có thể tự học được phần kiến thức ngôn ngữ (từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm). Như vậy, giảng viên sẽ không còn là người cung cấp những kiến thức ngôn ngữ đó trên lớp mà giảng viên phải tổ chức các hoạt động để giúp SV củng cố các kiến thức ngôn ngữ đó, áp dụng kiến thức đó để phát triển kĩ năng giao tiếp. Phương pháp học kết hợp (E-learning VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 264 được sử dụng như một bộ phận không thể tách rời trong các lớp học truyền thống) được coi là một cuộc cách mạng trong công nghệ đào tạo khi nó đã được chứng minh là mang lại hiệu quả về chất lượng và giá thành đào tạo. Tuy nhiên, những rào cản lớn nhất để áp dụng phương pháp này là: quan điểm, khả năng giảng dạy của giảng viên; ý thức học của học viên và việc phải thiết kế lại mục tiêu, chương trình đào tạo. Việc chuyển đổi mô hình giáo dục đại học từ đại học tinh hoa (chỉ tuyển chọn số ít người học có khả năng và động lực học) sang giáo dục đại chúng (tuyển nhiều SV với khả năng, trình độ, ý thức học khác nhau để nâng cao trình độ lao động cho toàn xã hội) và việc SV ngày nay có trình độ công nghệ thông tin cũng như phụ thuộc vào công nghệ thông tin đã khiến mục tiêu, phương pháp đào tạo phải thay đổi. Ví dụ như trước kia, người thầy quan tâm nhiều hơn đến truyền đạt kiến thức còn việc sử dụng kiến thức đó phần lớn phụ thuộc vào sự tích cực của người học. Hiện nay, người thầy cần phải quan tâm sát sao tới nhu cầu của các nhóm người học khác nhau (Individualised instruction) để kích thích các đối tượng khác nhau theo đuổi những mục tiêu cá nhân khác nhau. Vì vậy, nhu cầu của người học cũng cần phải được quan tâm trong quá trình xây dựng mục tiêu, chương trình và tổ chức các hoạt động giảng dạy. Việc giáo dục nghề nghiệp gắn với nhu cầu sử dụng cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu và nội dung giảng dạy môn Tiếng Anh. Nội dung giảng dạy cần gắn với môi trường mà người học sẽ sử dụng khi hành nghề (English for Occupational Purpose) hơn là việc trang bị kiến thức môn Tiếng Anh nói chung (môn Tiếng Anh cơ bản - General English). Vì vậy, việc thay đổi mục tiêu, chương trình, nội dung giảng dạy và kiểm tra, đánh giá theo định hướng nghề nghiệp với sự kết hợp của e-learning là điều tất yếu. Để đạt được hiệu quả thì cần phải có: - Nghiên cứu cụ thể về yêu cầu sử dụng môn Tiếng Anh của SV khi đi làm (Target needs). - Nhu cầu học của SV (Present needs). - Thiết kế lại mục tiêu, chương trình, tài liệu giảng dạy theo hướng phát huy điểm mạnh của mỗi môi trường học tập (Online và offline). - Bồi dưỡng giảng viên trên cơ sở phân tích nhu cầu hiện tại (giảng viên có khó khăn, điểm yếu gì về kiến thức, kĩ năng,... khi thực hiện chương trình). - Trang bị cơ sở vật chất để thực hiện chương trình. Tóm lại, để đáp ứng yêu cầu đào tạo ở các trường đại học nói chung cũng như quản lí dạy học môn Tiếng Anh ở các trường đáp ứng CĐR cần chú ý: - SV nắm kiến thức môn Tiếng Anh và có kĩ năng giao tiếp trong các tình huống với chủ đề xã hội, công việc và văn hóa giáo dục. Ví dụ: Trong tình huống ở sân bay, khi giao tiếp phải hiểu được người bản ngữ nói gì; thực hiện giao tiếp tối thiểu để nêu lên được nhu cầu hay yêu cầu của mình. - Về nghe nói: Nghe hiểu được một hội thoại đơn giản trong môi trường công sở hay nơi công cộng, bệnh viện, nhà ga, sân bay. - Kết quả dự kiến: Tiến hành được hội thoại bằng tiếng Anh về bản thân, gia đình, bạn bè,... - Kĩ năng viết: Viết được một bức thư trong môi trường cơ quan, công sở (xin nghỉ ốm, có công việc) hay viết được nội dung tin nhắn. - Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được một văn bản với nội dung quen thuộc trong khoảng 600-700 từ (biết xem, đọc các hướng dẫn sử dụng máy móc, phương tiện...). 2.1.3. Phương pháp SV tiến hành tự học có hướng dẫn của giảng viên, theo hình thức ra bài tập về nhà. - Kiểm tra: Giảng viên trực tiếp kiểm tra trên lớp hoặc qua bài luận gửi trên mạng, tuỳ theo mục tiêu bài học. - Hình thức: Cần tạo môi trường tiếng để SV có cơ hội giao lưu, giao tiếp bằng tiếng Anh. - Giảng viên dạy bài qua mạng khi SV đã có vốn ngôn ngữ nhất định. - Trên lớp: SV làm việc với nhau theo hình thức cá nhân với cá nhân hoặc cá nhân với nhóm. 2.2. Mục tiêu quản lí dạy học môn Tiếng Anh ở các trường đại học không chuyên ngữ đáp ứng chuẩn đầu ra Dạy học môn Tiếng Anh ở các trường đại học nhằm trang bị cho SV kiến thức chuyên ngành theo từng lĩnh vực. Ví dụ như tiếng Anh về nghiệp vụ giao nhận; tiếng Anh thương mại; Tiếng Anh tài chính - kế toán; tiếng Anh công nghệ thông tin,... Trên cơ sở môn Tiếng Anh SV đã được học ở trường trung học cơ sở, trung học phổ thông mà nhà trường củng cố, ôn tập và có thể phát triển ở một mức độ cao hơn. Bên cạnh đó, SV còn có thêm cơ hội rèn luyện, phát huy khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tinh thần làm việc hợp tác theo nhóm khả năng nhạy bén trong các tình huống. Về giáo trình: Một số trường đại học không chuyên ngoại ngữ có thể do giảng viên tự biên soạn giáo trình môn Tiếng Anh theo chuyên ngành giảng dạy tại các trường với chương trình khung của Bộ GD-ĐT hoặc có những trường tham khảo một số tài liệu giảng dạy có sẵn trên thị trường. Chẳng hạn như cuốn giáo trình “TOIEC” là một thể loại khá phù hợp với các trường vì nó cung cấp VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 262-265; 255 265 những từ có liên quan đến các lĩnh vực nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng giáo trình này vào giảng dạy chưa được phổ biến. Về phương pháp dạy học: Giảng viên chủ yếu sử dụng phương pháp vấn đáp, đàm thoại, phương pháp hoạt động nhóm để giúp SV khi học môn Tiếng Anh có thể phát huy hết khả năng của mình một cách tốt nhất, đồng thời phát huy khả năng nhạy bén, tư duy và sáng tạo. Phương pháp dạy học có sự hỗ trợ của các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại rất cần thiết và hữu ích khi giảng dạy ngoại ngữ vì nó tiết kiệm thời gian, có tính minh hoạ, trực quan cao, giúp SV khi học ngoại ngữ có cơ hội rèn luyện các kĩ năng nói, nghe, kĩ thuật phát âm, ngữ điệu,... theo tiếng nói của người bản địa thông qua nghe băng, đài hoặc đĩa. Việc mời giảng viên hoặc chuyên gia người nước ngoài cộng tác trong giảng dạy ngoại ngữ ở các trường còn rất hạn chế. Do đó, nhìn chung kĩ năng giao tiếp của SV còn chưa cao. Các em phần lớn còn có xu hướng ngại giao tiếp khi gặp người nước ngoài, sợ nói sai. Đây là một đặc điểm mà có lẽ các trường đại học không chuyên ngoại ngữ cần phải lưu tâm. Ngoài ra, thông qua các hoạt động ngoại khoá như tổ chức các câu lạc bộ tiếng Anh, festival ngoại ngữ, các kì thi Olympic ngoại ngữ,... để SV có thêm cơ hội sử dụng và trau dồi kiến thức ngoại ngữ của mình. Như vậy, thông qua các phương pháp dạy học môn Tiếng Anh, chúng ta có thể thấy các hình thức dạy học bộ môn này chủ yếu là hình thức lên lớp, thảo luận, hoạt động nhóm, hoạt động ngoại khoá và một hình thức nữa không thể thiếu đối với các em SV là hình thức học tập ở nhà. Hoạt động dạy học ngoại ngữ ở các trường đại học không chuyên ngữ nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của SV và của xã hội. Tuy nhiên, còn một bộ phận SV vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay (khi mà cơ hội xin việc làm trong các công ty nước ngoài hoặc thậm chí được đi xuất khẩu lao động rất nhiều...), các em còn học chưa đúng, học theo kiểu chống chế, đối phó. Do vậy, giảng viên dạy ngoại ngữ nên tìm cho mình những cách thức dạy sao cho thực sự lôi cuốn, giúp SV nâng cao nhận thức về môn học này. Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học kĩ thuật, viễn thông và công nghệ thông tin cũng như sự phát triển trong quan hệ đối ngoại đã làm cho ngoại ngữ càng trở nên cần thiết và mang tính chất bắt buộc hơn nhiều với những người có nhu cầu tuyển dụng. Với Việt Nam, khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới và là điểm đến để tổ chức nhiều sự kiện mang tính chất chuyên nghiệp và tầm cỡ quốc tế như: Hội nghị thượng đỉnh Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt và đặc biệt là cuộc thi hoa hậu hoàn vũ thế giới được tổ chức tại Nha Trang, Khánh Hoà đã thu hút rất nhiều du khách nước ngoài đến Việt Nam. Chính xu thế hội nhập hiện nay đã tạo ra nhiều thời cơ cũng như những thách thức to lớn cho đất nước. Đối với ngành Giáo dục, việc quan tâm, quản lí, chú trọng đến hoạt động dạy ngoại ngữ càng cần được lưu ý hơn bao giờ hết. Đặc biệt ở các trường đại học thì hoạt động dạy ngoại ngữ trong xu thế hội nhập có vai trò vô cùng to lớn, nó góp phần đáp ứng được mục tiêu của nhà trường là đào tạo ra những cử nhân, kĩ thuật viên, kĩ sư,... có trình độ nhất định về ngoại ngữ (mà phổ biến là tiếng Anh) bên cạnh trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất của bản thân. Ngoại ngữ ở các trường đại học có xu hướng thiên về giao tiếp nhiều hơn, chú trọng đến ngoại ngữ chuyên ngành, giúp cho SV sau khi ra trường có thể sử dụng để phục vụ ngay cho công việc của mình. Bên cạnh đó, có một số trường đại học còn có hình thức tổ chức cho SV học ở nước ngoài hay liên kết đào tạo cử nhân nên ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng rất cần thiết được trang bị cho SV. Trong xu thế hội nhập hiện nay thì cơ hội tìm việc làm trong các công ty liên doanh trong nước và các doanh nghiệp ở nước ngoài đang mở ra rất nhiều triển vọng cho SV. Do đó, việc dạy ngoại ngữ sẽ giúp trang bị cho SV phương tiện giao tiếp thông dụng cũng như chuyên ngành được đào tạo để các em được thuận lợi hơn trong khi làm việc với đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao hiệu quả lao động. Như vậy, việc dạy ngoại ngữ ở các trường đại học nói chung, đại học không chuyên ngữ nói riêng không chỉ có vai trò thoả mãn nhu cầu giao tiếp thông thường mà còn giúp SV sau khi ra trường sẽ tự tin hơn trong công việc khi giao tiếp và làm việc với các đối tác nước ngoài. 3. Kết luận Để dạy học môn Tiếng Anh đáp ứng CĐR ở các trường đại học không chuyên ngữ, các trường cần thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch dạy học, chương trình nội dung dạy học, trong đó đi sâu kiểm tra việc giảng viên giảng dạy và thực hiện kế hoạch (bao gồm thời gian, lịch trình, phương pháp, phương tiện) đảm bảo chương trình, nội dung dạy học sát với thực tiễn và phù hợp với CĐR môn Tiếng Anh đã được xác định, đảm bảo đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các trường đại học đặt ra. (Xem tiếp trang 255) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 250-255 255 2.4. Kết quả ứng dụng phương pháp khảo sát sử dụng Google biểu mẫu và nhóm kín Facebook Với yêu cầu cần khảo sát tình hình việc làm của 70 SV sau khi tốt nghiệp, tác g
File đính kèm:
- mot_so_van_de_li_luan_ve_chuan_dau_ra_mon_tieng_anh_o_cac_tr.pdf