Một số lỗi thường gặp của học sinh, sinh viên khi học Tiếng Anh
Cùng với sự phát triển kinh tế, khoa
học, công nghệ và hội nhập toàn cầu trong
thời đại mới, nhu cầu học ngoại ngữ, đặc
biệt là tiếng Anh ở nước ta ngày càng cao.
Tiếng Anh không chỉ là môn học chính thức
mà còn là môn học bắt buộc được quan tâm
hàng đầu đối với học sinh, sinh viên ở các
cấp học. Việc dạy và học tiếng Anh không
những trang bị cho sinh viên những kiến
thức ngữ pháp chắc chắn mà còn tạo cho họ
khả năng nghe nói tốt.
Trong quá trình dạy tiếng Anh, chúng
tôi nhận thấy rằng học sinh, sinh viên đã mắc
phải nhiều lỗi sau đây khi học và sử dụng
Tiếng Anh là do các nguyên nhân sau đây.
- Tiếng Anh khác với tiếng mẹ đẻ
(tiếng Việt).
- Học sinh, sinh viên không hiểu quy
tắc dùng.
- Có những ngoại lệ so với quy tắc.
- Học sinh sinh viên không biết vì thế
tự phỏng đoán
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 122 MỘT SỐ LỖI THƯỜNG GẶP CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN KHI HỌC TIẾNG ANH ThS. Nguyễn Thị Kim Cúc Trung tâm Ngoại ngữ tin học, trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Trong bài báo này, tác giả tập trung nghiên cứu về một số lỗi học sinh, sinh viên hay mắc khi học tiếng Anh và đồng thời đưa ra một số trường hợp cụ thể mà học sinh, sinh viên hay nhầm lẫn về lỗi phát âm, văn phạm khi nói và viết với mục đích giúp học sinh, sinh viên có thể tránh được một số lỗi thường gặp này trong quá trình học tiếng Anh, nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Anh cho học sinh, sinh viên. Cùng với sự phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ và hội nhập toàn cầu trong thời đại mới, nhu cầu học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở nước ta ngày càng cao. Tiếng Anh không chỉ là môn học chính thức mà còn là môn học bắt buộc được quan tâm hàng đầu đối với học sinh, sinh viên ở các cấp học. Việc dạy và học tiếng Anh không những trang bị cho sinh viên những kiến thức ngữ pháp chắc chắn mà còn tạo cho họ khả năng nghe nói tốt. Trong quá trình dạy tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy rằng học sinh, sinh viên đã mắc phải nhiều lỗi sau đây khi học và sử dụng Tiếng Anh là do các nguyên nhân sau đây. - Tiếng Anh khác với tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt). - Học sinh, sinh viên không hiểu quy tắc dùng. - Có những ngoại lệ so với quy tắc. - Học sinh sinh viên không biết vì thế tự phỏng đoán. Các lỗi này không chỉ là các lỗi phát âm, dùng từ mà còn là lỗi về văn phạm mắc phải khi nói hoặc khi viết Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những lỗi mà sinh viên thường dùng sai hoặc nhầm lẫn khi sử dụng một số từ, âm, hoặc cụm từ thông dụng. 1. Khi giao tiếp đa số học sinh, sinh viên không chú ý đến cách đọc các âm được viết bằng chữ “s” ở cuối các danh từ số nhiều và động từ ở thì hiện tại đơn ngôi thứ 3 số ít. Học sinh, sinh viên thường “nuốt” âm, không đọc hoặc đọc sai. Chẳng hạn chữ “s” âm vị phụ âm hữu thanh hoặc nguyên âm, lẽ ra phải đọc là /z/ nhưng thường bị đọc sai là /s/. (Sau đây, những cách đọc sai được đánh dấu *) Ví dụ: bars / ba:z -> * / ba:s/ tables / teiblz/ -> * / teibls/ lives /livz/ -> * / livs/ 2. Một trong những lỗi điển hình nữa đó là lỗi cách đọc các động từ có đuôi (vĩ tố) “– ed” xuất hiện ở các từ biến đổi theo quy tắc ở thì quá khứ đơn, phân từ quá khứ các thì hoàn thành và cấu trúc câu bị động. Chẳng hạn, theo quy tắc đọc của Tiếng Anh thì các động từ có tận cùng là âm vị phụ âm /t/, /d/ thì “ed” mới đọc là /id/ Ví dụ: united / junaitid/ divided/ divaidid/ Do không nắm vững quy tắc này nên nhiều học sinh, sinh viên đọc cả những động từ khác với đuôi /id/ Ví dụ: liked / laikt/ -> */ laikid/ miss / mist/ -> * / misid/ Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 123 3. Trong tiếng Việt, quan hệ giữa các thành tố cấu tạo âm tiết rất chặc chẽ các âm cuối từ thường là âm đóng. Ví dụ: Người học thường áp đặt cách phát âm của tiếng mẹ đẻ vào tiếng Anh và thường đọc sai, hoặc khi nói thường nuốt âm vị phụ âm cuối. Ví dụ: Có các từ khác nhau như sau: five / faiv/ find /faind/ fine/ fain/ Học sinh, sinh viên đều đọc là */ fai/ , không có phụ âm cuối. 4. Một số lỗi phổ biến mà học sinh, sinh viên hay mắc đó là khi sử dụng danh từ ghép. Trong tiếng Anh danh từ có thể có chức năng như tính từ khi chúng xuất hiện trước một danh từ khác “a wood table (một cái bàn gỗ), a gold ring (một chiếc nhẫn vàng), a history teacher (một giáo viên lịch sử)” Những danh từ này theo quy tắc luôn ở số ít, kể cả khi chúng giải thích cho danh từ ở số nhiều. Ví dụ: Khi muốn nói “Đây là đôi giày có giá 50 đô la.” Ta nói: These are fifty dollar shoes. Không nói: These are fifty dollars jeans. Khi muốn nói “ Hầu hết trẻ con đều thích nghe chuyện ma.” Ta nói: Most children like listening to ghost stories. Không nói: Most children like listening to ghosts stories. Nhưng học sinh, sinh viên thường để các danh từ này ở số nhiều. Sở dĩ mắc lỗi này là do họ không được biết là có những trường hợp ngoại lệ như (sports car) hoặc có những danh từ có vĩ tố /-s/ giống như vĩ tố của danh từ số nhiều. (economics university, news report) hoặc trong tiếng Anh còn có cách sử dụng như sau: -Cụm danh từ (số ít hoặc số nhiều)+ time Ví dụ: They are going to have a test in a few days’ time (Họ sẽ có bài kiểm tra trong một vài ngày tới.) -Sở hữu cách của các danh từ số nhiều Ví dụ: The girls’ room is over there. (Phòng con gái ở đằng kia.) 5. Một điều đáng chú ý khi sử dụng mạo từ không xác định (indefinite article) đôi khi cũng khiến người học nhầm lẫn. Theo quy tắc chúng ta dùng mạo từ “a” trước những danh từ bắt đầu bằng một âm vị phụ âm và dùng “an” trước danh từ bắt đầu bằng một âm vị nguyên âm. Có những trường hợp người học không xác định danh từ đó bắt đầu bằng một bán nguyên âm và dùng nó như một nguyên âm. Ví dụ: Chúng ta phải nói “a university” chứ không nói “ an university” Vì chữ cái đầu “u” của từ “university” không biểu thị nguyên âm mà là bán nguyên âm /j/ và nó hành chức như một phụ âm. Để sử dụng mạo từ này, chúng ta phải xét đến cách phát âm của danh từ đi sau nó có chữ cái đầu tiên là nguyên âm hay phụ âm (hoặc bán nguyên âm, hoặc có thể là phụ âm nhưng phụ âm câm (mute), không đọc. Ví dụ: a European man, a young man, an hour, an honest person Các phụ âm /h/ trong các từ “hour”, “honest” là các phụ âm “câm” nên các từ này được coi là bắt đầu bằng các âm vị nguyên âm. 6. Người học cũng gặp khó khăn trong việc sử dụng các giới từ chỉ cách thức hành động. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 124 Trong tiếng Anh, người ta có thể dùng một số giới từ như “by, in, with” để chỉ phương tiện, cách thức hành động, trong khi đó trong tiếng Việt chúng ta chủ yếu quen dùng từ “ bằng” – tương đương với từ “by” trong tiếng Anh. Chính vì vậy mà hầu hết các trường hợp chuyển dịch từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Anh người học hay thường mắc lỗi (thường chỉ dùng từ “by”) Ví dụ:-He often contacts her by letter. (Anh ta thường liên lạc với cô ta bằng thư.) - She earns our living by singing. (Cô ta kiếm sống bằng ca hát.) - The letter was written in English. (Bức thư được viết bằng tiếng Anh.) - You can pay in cash (Bạn có thể trả bằng tiền mặt.) - We can cut the cake with a knife. (Chúng ta có thể cắt bánh bằng một con dao.) - We can see it with a microscope. (Chúng ta có thể nhìn thấy nó bằng kính hiển vi.) - This table is made of wood. (Cái bàn này được làm bằng gỗ.) 7. Việc sử cụm từ như “made of” và “made from”(được làm bằng) cũng khiến cho người học gặp nhiều khó khăn trong phân biệt việc chọn từ. - “made of”: làm bằng (vật liệu dùng để làm vật đó không thay đổi nhiều so với sản phẩm làm ra, nhìn vào sản phẩm thấy luôn được vật liệu làm ra nó.) - “made from”: làm bằng (vật liệu dùng để làm vật đó đã được chế biến và không còn nhìn thấy vật liệu đó nữa) Ví dụ: Khi muốn nói: “Cái bàn này làm bằng gỗ” Ta nói: This hand bag is made of wood. Nhưng khi muốn nói: “Bánh mì được làm bằng lúa mì” Ta nói: Bread is made from wheat. 8. Một điều đáng chú ý nữa là trật tự câu trần thuật thông thường trong tiếng Anh là: Chủ ngữ + động từ + bổ ngữ/ tân ngữ + trạng ngữ Ví dụ: He speaks English well Ở đây chúng tôi muốn lưu ý nhất là trật tự của động từ và trạng từ: Động từ thường đứng trước trạng từ nhất là trạng từ chỉ cách thức hành động). Nhưng trong cấu trúc bị động thường có trật tự như sau: Chủ ngữ + trợ động từ + trạng ngữ + động từ (được chia ở quá khứ phân từ) Vì trong cấu trúc bị động, điều quan tâm chính của người nói là động từ. Ví dụ: - English is widely used. (Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi.) 9. Động từ “hear” và “listen” cùng có nghĩa là “nghe” trong tiếng Việt. Khi sử dụng người học thường khó phân biệt rõ sự khác nhau về ý nghĩa và cách sử dụng riêng của mỗi từ nên dễ nhầm lẫn khi sử dụng chúng. Về ý nghĩa “hear”: nghe thoáng qua (“to be aware of sounds with ears” – nghe mà chưa có sự chuẩn bị và chủ tâm trước khi nghe) Ví dụ: - We can’t hear very well. (Chúng tôi không thể nghe rõ lắm) - We could hear him talking. (Chúng tôi có thể nghe thấy anh ta nói chuyện) “listen”: nghe chú ý và có chủ tâm, ai đó, cái gì vừa mới được nghe thấy (“to pay attention to somebody / something that you can hear”) Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 125 Ví dụ:- We listen to the teacher carefully. (Chúng tôi chăm chú lắng nghe thầy giáo) Về cách dùng “hear” không được dùng trong các thời tiếp diễn. Ví dụ: He has been heard to go aboard with his girlfriend. (Nghe đồn cô ta đã nước ngoài với cô bạn gái.) “listen” có thể được dùng trong các thời tiếp diễn. Ví dụ: We are listening to an English song at the moment. ( Bây giờ chúng tôi đang nghe một bài hát tiếng Anh) “listen” được dùng để lưu ý mọi người một điều gì đó. Ví dụ: Listen! someone is knocking at the door.( Nghe này! có ai đó đang gõ cửa.) “listen” thường đi với giới từ “to” Ví dụ: He often listens to music in his free time. (Anh ta thường nghe nhạc trong thời gian rảnh) 10. Đa số người học ít phân biệt việc sử dụng “everyday” (hằng ngày) và “every day” (mỗi ngày) vì nghĩa của chúng gần như tương đương nhau. Everyday viết liền một từ, mô tả cuộc sống bình thường và những công việc thông thường mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Không có gì đặc biệt thú vị hay bất thường. Đây là tính từ dùng trước danh từ. Ví dụ: We must return to everyday life, forget tragedies and love-affairs. (Chúng ta phải trở lại cuộc sống hàng ngày, quên đi những bi kịch và những cuộc tình.) - Children’s language develops with everyday talk. ( Ngôn ngữ của trẻ con phát triển qua việc nói chuyện hằng ngày.) - Nếu chuyện gì xảy ra mỗi ngày (every day) viết rời hai từ tức mỗi tuần nó xảy ra bảy ngày. Đây là cụm trạng từ hơn là tính từ. Ví dụ: Mary and Peter talk on the phone every day. (Mary và tôi nói chuyện qua điện thoại mỗi ngày.) 11. Người học cũng thường nhầm lẫn trong việc biểu thị sự đồng tình với lời nói khẳng định hay phủ định. Khi người bạn của bạn nói: “I like cats”. Bạn đáp lại: “Me too”. Khi người bạn của bạn nói “I don’t like cat” Bạn đáp lại “Me neither” (hoặc“I don’t, either” hoặc “Neither do I”) Khi một người dùng dạng phủ định để nói có nghĩa là động từ chính có dùng “NOT” và bạn cũng đồng tình với ý kiến đó, bạn phải nói “Me neither”. Ngược lại lưu ý khi một người bạn nói: “I dislike cats” bạn phải đáp lại “Me too” (hoặc “I dislike cats, too”) Ở đây người học thường tự suy luận theo cách của họ rằng “dislike” có nghĩa là “don’t like” nên thường đáp lại “Me neither” là không đúng. Mặc dù ví dụ này cũng diễn tả ý như ví dụ trên nhưng động từ chính của câu “I dislike cats” không dùng “NOT”. 12. Cả hai đều là danh từ nhưng khi nào thì dùng “person” khi nào dùng “people”? Trước hết là danh từ số ít và số nhiều trong tiếng Anh phần lớn các danh từ số ít được tạo thành danh từ số nhiều bằng cách thêm “-s” vào cuối danh từ. Ví dụ: a boy -> 2 boys a student-> many students Nhưng một số danh từ có dạng số nhiều bất quy tắc Ví dụ: a child -> children a person -> 2 people Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 126 “person” cũng được dùng trong một cụm từ có chức năng như một tính từ bổ nghĩa cho danh từ sau nó để tạo thành một cụm danh từ. Trường hợp này không được thêm “-s” vào “person” hay biến đổi “person” thành “people”. Ví dụ: a four – person car (một chiếc xe ô tô 4 chỗ). Tuy nhiên, đôi khi chúng ta gặp từ “persons” Ví dụ, trong thang máy người ta viết: “five persons only” (chỉ năm người) hay nếu ta nghe tin tức thì từ “persons” cũng được dùng như: “Four persons were injured in the accident”. Từ “persons” được dùng trong ngữ cảnh trịnh trọng là dạng số nhiều mang sắc thái trịnh trọng hơn. Cũng có lúc chúng ta gặp từ “peoples”. Ngoài nghĩa là người, “people” còn được dùng để chỉ một dân tộc “nationality” – tất cả người của một quốc gia như: “the people of Vietnam”. Khi chúng ta nói về nhiều dân tộc khác nhau, chúng ta phải dùng từ “peoples”: Ví dụ: “the peoples of South America” (các dân tộc Nam Mỹ) Đây là cách dùng ít thông dụng của từ “peoples”. Trên đây là một số lỗi hay mắc của học sinh, sinh viên mà trong quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy. Chúng tôi hi vọng bài viết này phần nào giúp bạn đọc dễ dàng hơn khi học và sử dụng tiếng Anh và học môn này hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO: [1]. Practical English Usage – Oxford University Press. 1994. [2]. A university grammar of English -Randolph Quirk. Sidney Greenbaum.1976. [3]. Tofel – Michael A. Pyle, MA and Mary Allen Munoz Page, MA. 1994.
File đính kèm:
- mot_so_loi_thuong_gap_cua_hoc_sinh_sinh_vien_khi_hoc_tieng_a.pdf