Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên bộ môn tiếng Trung Quốc - Khoa ngoại ngữ- đại học Thái Nguyên
Nghiên cứu khoa học (NCKH) giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục đại học vì nó không
những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới thúc
đẩy sự phát triển của nhân loại. Đối với giảng viên NCKH được xác định là nhiệm vụ trọng tâm
quan trọng bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy. Bài viết nghiên cứu thực trạng NCKH của giảng viên bộ
môn tiếng Trung Quốc- Khoa Ngoại ngữ- Đại học Thái Nguyên. Từ việc phân tích thực trạng đề
xuất một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH phát triển mạnh hơn.
Từ khóa: đẩy mạnh, nghiên cứu khoa học, bộ môn tiếng Trung, thực trạng, giải pháp
ển và xét tuyển đào tạo tiến sỹ tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội và các trường đại học có uy tín tại Trung Quốc. Thông qua việc học tập giảng viên không những có cơ hội tiếp cận sâu hơn ngôn ngữ bản địa, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn có cơ hội tiếp thu thành tựu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tân tiến. Ngoài việc tham gia các khóa học dài hạn, một số giảng viên của bộ môn còn thường xuyên tham gia và báo cáo tại các hội nghị, hội thảo chuyên ngành quốc gia và quốc tế. Việc tham gia hội thảo chuyên ngành đã đem lại một diện mạo mới cho môi trường giao lưu, học tập, nghiên cứu của bộ môn. Khi các giảng viên ra nước ngoài tiếp cận với những phương pháp nghiên cứu mới, tiếp thu gợi ý quý báu của các chuyên gia, trao đổi, học hỏi từ những người bạn đồng nghiệp thì kiến thức, kỹ năng về nghiên cứu của giảng viên được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Trong năm 2016 bộ môn đã tổ chức một hội thảo chuyên ngành có sự tham gia của các chuyên gia ngôn ngữ trong và ngoài nước. Số lượng các công trình khoa học có thể ứng dụng vào giảng dạy tương đối nhiều. Giai đoạn đầu khi mới thành lập, các đề tài KH&CN mới chỉ dừng lại ở các nghiên cứu mang tính chất lý thuyết như nghiên cứu các hiện tượng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cơ bản. Từ năm 2011 trở lại đây khi các giảng viên đã tích lũy được lượng kiến thức khoa học và kinh nghiệm giảng dạy nhất định, các giảng viên đã mạnh dạn đề xuất các đề tài KH&CN sang hướng ứng dụng vào thực tế giảng dạy như: ứng dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến vào giảng dạy các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; thiết kế các phần mềm hỗ trợ học tập tiếng Trung giai đoạn sơ cấp; nghiên cứu và biên soạn giáo trình các môn học dự án theo hướng tiếp cận phát triển Đối với các đề tài khoa học và công nghệ (KH&CN) cấp Đại học, cấp cơ sở hầu hết giảng viên trong bộ môn luôn tự giác, nhiệt tình tham gia. Từ khi thành lập đến thời điểm tháng 7 năm 2018 bộ môn đã đạt được một số kết quả về NCKH như ở bảng 2. Tồn tại, hạn chế Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác NCKH của bộ môn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau: Chất lượng một số đề tài chưa cao, thiếu hàm lượng khoa học và công nghệ. Có một số thời điểm do một trong những tiêu chí đánh giá viên chức là phải có công trình khoa học nên các giảng viên ồ ạt tham gia nghiên cứu đề tài NCKH cấp cơ sở và cấp bộ môn. Điều này dẫn đến chất lượng đề tài không được đảm bảo. Chiến lược hoạt động khoa học và công nghệ còn dàn trải, chưa có định hướng chủ đạo và những nghiên cứu mang tính chiến lược. Số lượng các bài báo khoa học, đề tài NCKH tương đối nhiều song nội dung và mục tiêu nghiên cứu không tập trung giải quyết các vấn đề cấp thiết phát sinh trong quá trình dạy học. Nguyên nhân Do đội ngũ giảng viên tương đối trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm về nghiên cứu và giảng dạy. Việc này dẫn đến đa phần giảng viên đều lựa chọn các đề tài nghiên cứu mang tính an toàn như các đề tài nghiên cứu lý thuyết cơ bản; so sánh, đối chiếu giữa hai ngôn ngữ Trung- Việt; thông qua ngôn ngữ Hán tìm hiểu văn hóa Trung Quốc Bảng 2. Số lượng công trình khoa học STT CÔNG TRÌNH KHOA HỌC SỐ LƯỢNG GHI CHÚ 1 Sách, giáo trình, tài liệu tham khảo 05 2 Đề tài KH&CN cấp Đại học 05 3 Đề tài KH&CN cấp cơ sở 37 4 Bài đăng tạp chí nước ngoài 14 5 Bài đăng tạp chí trong nước 32 6 Bài đăng kỷ yếu hội nghị, hội thảo 52 Đào Thị Hồng Phượng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 17 - 20 19 Bảng 3. Tỷ lệ độ tuổi STT ĐỘ TUỔI SỐ LƯỢNG TỶ LỆ GHI CHÚ 1 Trên 40 2 7,2% 2 Từ 30-39 23 82,1% 3 Từ 20-29 03 10,7% Trong quá trình công tác một số ít giảng viên không có hứng thú với hoạt động NCKH. Số giảng viên này sa đà vào các công việc làm thêm, họ không có tinh thần phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Khi được giao nhiệm vụ nghiên cứu họ thực hiện trong tình trạng bị động dẫn đến chất lượng NCKH chưa cao. Các giảng viên này thường lựa chọn các đề tài nghiên cứu tập thể. Trong quá trình nghiên cứu không có sự kết nối nên nội dung đề tài thiếu tính hệ thống và logic. Hiện nay 100% các giảng viên trong bộ môn đều phải dạy vượt định mức. Ngoài việc phải hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy giảng viên còn phải kiêm nhiệm rất nhiều công tác khác như: cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm, viết đánh giá chương trình, viết đề cương giáo án các môn học mới, biên soạn giáo trình và bài tập bổ trợ môn học, học tập đáp ứng chuẩn ngoại ngữ và tin học v.v. Các công tác này làm cho quỹ thời gian dành cho NCKH càng thêm hạn hẹp. Giảng viên trong bộ môn 96,5% là nữ và đều trong độ tuổi thai sản. Việc mang bầu, sinh nở, thai sản làm gián đoạn công tác NCKH, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng các công trình NCKH của chị em. Giải pháp (1) Nâng cao nhận thức cho các giảng viên về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động NCKH ở trường đại học Hiện nay một số giảng viên trong bộ môn chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của công tác NCKH. Một số ít giảng viên còn cho rằng NCKH là công việc mất nhiều thời gian, công sức và không mang lại hiệu quả về kinh tế. Đây là một nhận định hết sức lệch lạc và sai lầm. Để giải quyết vấn đề này lãnh đạo bộ môn cần quán triệt nhiệm vụ NCKH đối với giảng viên, tuyên truyền về vai trò quan trọng của NCKH trong việc trau dồi năng lực chuyên môn của mỗi cá nhân và sự phát triển của nhà trường. Kết quả của NCKH cần phải được xem như một tiêu chí đánh giá về chất lượng chuyên môn của giảng viên. (2) Xây dựng cơ chế khen thưởng, kỷ luật hợp lý trong hoạt động NCKH Việc xây dựng một quy chế khen thưởng, kỷ luật phù hợp sẽ là động lực giúp giảng viên hứng thú và nhiệt huyết hơn với công tác NCKH. Để xây dựng được quy chế này bộ môn cần lấy ý kiến từ toàn thể giảng viên. Hàng năm bộ môn cần tổ chức một hội nghị tổng kết công tác NCKH của bộ môn để tổng kết lại các thành tích cũng như tồn tại về NCKH trong một năm học. Qua buổi tổng kết sẽ tuyên dương và khen thưởng các cá nhân có thành tích nổi bật về NCKH trong năm. Đối với các giảng viên chưa hoàn thành nhiệm vụ về NCKH cũng cần có hình thức kỷ luật phù hợp. Đây là một việc làm cần thiết đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi giảng viên. (3) Tăng cường các hình thức sinh hoạt khoa học theo nhóm chuyên môn Giải pháp này thực chất là sự phong phú hóa các hình thức sinh hoạt khoa học, tạo ra nhiều kênh trao đổi thông tin nghiên cứu, học tập lẫn nhau cho các giảng viên. Đây là giải pháp đóng vai trò then chốt để nâng cao chất lượng và tính ứng dụng của các nghiên cứu. Hiện nay bộ môn có các nhóm chuyên môn như: nhóm thực hành tiếng; nhóm lý thuyết tiếng; nhóm phương pháp giảng dạy; nhóm đề án và tiếng Trung chuyên ngành; nhóm ngôn ngữ Hán và văn hóa Trung Quốc. Các giảng viên trong nhóm đều là những người có chung môn học giảng dạy, chung sở thích về lĩnh vực nghiên cứu. Dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng các thành viên trong nhóm có thể trao Đào Thị Hồng Phượng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 17 - 20 20 đổi tài liệu, kinh nghiệm nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu để giúp đỡ nhau cùng tham gia các hoạt động NCKH. Các hoạt động NCKH có thể là viết bài tham gia hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế; viết bài đăng tạp chí trong nước và quốc tế; hướng dẫn sinh viên NCKH; tham gia đề tài KH&CN cấp đại học, cơ sở; xuất bản sách, giáo trình, tài liệu tham khảoViệc nghiên cứu theo nhóm chuyên môn sẽ tạo cơ hội và môi trường cho hoạt động NCKH được diễn ra thường xuyên và có hiệu quả hơn. KẾT LUẬN Giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ hàng đầu của một giảng viên. Đối với nhiệm vụ giảng dạy nếu không hoàn thành định mức công việc giảng viên sẽ bị xét không hoàn thành nhiệm vụ. Riêng đối với nhiệm vụ NCKH thì đây vẫn là một nhiệm vụ mang tính “khuyến khích” chứ chưa mang tính chất “bắt buộc”. Do đó một số giảng viên thường lơ là nhiệm vụ này. Việc đưa ra một biện pháp hay chế tài cụ thể là rất khó vì nó ảnh hưởng đến tâm lý giảng viên. Một giảng viên phải nghiên cứu trong tình trạng bị động, không thoải mái sẽ không thể cho ra một sản phẩm có chất lượng tốt. Nếu có thể tuyên truyền nâng cao nhận thức cho giảng viên; có sự khen thưởng động viên xứng đáng và tạo ra được một môi trường nghiên cứu thân thiện sẽ tạo động lực giúp họ hứng thú và nhiệt huyết với nhiệm vụ NCKH hơn. Việc nâng cao chất lượng các công trình nghiên cứu đồng nghĩa với nâng cao chất lượng đào tạo. Đây chính là cơ sở đưa Khoa ngoại ngữ trở thành đơn vị đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ có chất lượng của khu vực trung du miền núi phía Bắc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quyết định số 112/QĐ-KNN ban hành ngày 08/04/2011 về việc công bố sứ mệnh và tầm nhìn Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN 2. Báo cáo kết quả hoạt động NCKH của CBGV Khoa ngoại ngữ giai đoạn 2009-2017. (Tổ QLKH&HTQT) ABSTRACT SOLUTIONS TO PROMOTE SCIENTIFIC RESEARCH IN CHINESE DEPARTMENT AT THAI NGUYEN UNIVERSITY SCHOOL OF FOREIGN LANGUAGES Dao Thi Hong Phuong * School of Foreign Languages - TNU Scientific research plays an important role in higher education because it not only contributes to improve the quality of education but also creates new knowledge, new products for the development of humanity. Beside teaching, scientific research is also an important task for lecturers. This research is to study the current status of scientific research in Chinese Department at Thai Nguyen University School of Foreign Languages. Based on the analysis, we will propose some effective solutions in order to promote the development of scientific research activities. Key words: promotion, scientific research, Chinese Department, fact, solution Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 05/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018 * Tel: 0917 505898, Email: daohongphuong.sfl@tnu.edu.vn
File đính kèm:
- 305_363_1_pb_0475_2127081.pdf