Mô hình tri nhận ẩn dụ ý niệm của kết cấu “x + từ chỉ bộ phận cơ thể người” trong Tiếng Anh

Trên cơ sở quan điểm của ngôn ngữ học tri nhâṇ , bài viết phân tı́ch cá c mô hình ẩn dụ ý

niêṃ (ADYN) trong kết cấu “X + từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN)” trong tiếng Anh; phân tích

cá c á nh xạ ý niêm v ̣ à cơ sở tri nhân c ̣ ủa chú ng, cũng như cá ch thứ c mà cá c kết cấu “X+ từ chỉ

BPCTN” trong tiếng Anh đã đươc̣ ý niêm h ̣ ó a; từ đó, chı̉ ra những né t đăc trưng trong văn h ̣ óa và

tư duy của người Anh nói riêng người Anh – Mĩ nói chung, đồng thờ i đặt ra môt gi ̣ ả thuyết về mô

hı̀nh của tư duy và văn hóa Anh – Mĩ

pdf13 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình tri nhận ẩn dụ ý niệm của kết cấu “x + từ chỉ bộ phận cơ thể người” trong Tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TẠP CHÍ KHOA HỌC 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
Tập 17, Số 4 (2020): 692-704 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION 
JOURNAL OF SCIENCE 
Vol. 17, No. 4 (2020): 692-704 
ISSN: 
1859-3100 Website:  
692 
Bài báo nghiên cứu* 
MÔ HÌNH TRI NHẬN ẨN DU ̣Ý NIÊṂ 
CỦA KẾT CẤU “X + TỪ CHỈ BÔ ̣PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI” 
TRONG TIẾNG ANH 
Trần Trung Hiếu 
Trường Trường Đaị hoc̣ An ninh nhân dân, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Trần Trung Hiếu – Email: trantrunghieuphhvannd@gmail.com 
Ngày nhận bài: 07-01-2020; ngày nhận bài sửa: 01-3-2020, ngày chấp nhận đăng: 22-4-2020 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở quan điểm của ngôn ngữ học tri nhâṇ, bài viết phân tı́ch các mô hình ẩn du ̣ ý 
niêṃ (ADYN) trong kết cấu “X + từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN)” trong tiếng Anh; phân tích 
các ánh xa ̣ ý niêṃ và cơ sở tri nhâṇ của chúng, cũng như cách thức mà các kết cấu “X+ từ chỉ 
BPCTN” trong tiếng Anh đã đươc̣ ý niêṃ hóa; từ đó, chı̉ ra những nét đăc̣ trưng trong văn hóa và 
tư duy của người Anh nói riêng người Anh – Mĩ nói chung, đồng thời đặt ra môṭ giả thuyết về mô 
hı̀nh của tư duy và văn hóa Anh – Mĩ. 
Từ khóa: từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh; mô hı̀nh ẩn du ̣ý niêṃ; ngôn ngữ hoc̣ 
tri nhâṇ; văn hóa; tư duy 
1. Đăṭ vấn đề 
Theo Kovecses (2010, p.18-54), từ chỉ bô ̣ phâṇ cơ thể người là môṭ miền nguồn lí 
tưởng cho chúng ta, thông qua phép ẩn du,̣ để có thể hiểu đươc̣ thấu đáo những miền đı́ch 
trừu tươṇg. Kovecses dẫn số liêụ từ công trı̀nh nghiên cứu đươc̣ thưc̣ hiêṇ bởi môṭ hoc̣ trò 
của ông là Réka Benczes, trong đó thống kê rằng trong số 12.000 thành ngữ tı̀m kiếm đươc̣ 
có sử duṇg phương tiêṇ ẩn du ̣thı̀ đa ̃có hơn 2000 thành ngữ bao gồm từ chỉ BPCTN. Điều 
này cho thấy rằng môṭ số lươṇg rất lớn các ý niêṃ ẩn du ̣đến từ trải nghiêṃ thưc̣ tế của 
chúng ta với cơ thể con người. 
Kết cấu “X + từ chỉ BPCTN” trong tiếng Anh là một cấu trúc ngôn ngữ có sẵn bao 
gồm hai hoặc nhiều hơn hai từ đươc̣ cấu trúc thành ở daṇg một ngữ hoặc mệnh đề, có 
những đặc tính riêng biệt về mặt cấu taọ, có hı̀nh thức ổn điṇh và có trâṭ tư ̣tương đối ổn 
điṇh trong sắp đặt; ngữ nghĩa của các kết cấu này mang tính bóng bẩy và có tı́nh biểu trưng 
cao. Chúng tôi đa ̃khảo sát 391 kết cấu “X + từ chỉ BPCTN” tiếng Anh từ 14 nguồn ngữ 
Cite this article as: Tran Trung Hieu (2020). The cognitive models of conceptual metaphors represented 
by the idiomatic structures “X + body organs” in English. Ho Chi Minh City University of Education Journal 
of Science, 17(4), 692-704. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trần Trung Hiếu 
693 
liêụ tiếng Anh (bao gồm 3 tác phẩm văn hoc̣ Anh – Mĩ, 5 tác phẩm dic̣h đươc̣ chuyển thể 
từ tiếng Viêṭ sang tiếng Anh và 6 từ điển tiếng Anh). 
2. Môṭ số vấn đề về lí thuyết 
2.1. Lí thuyết nghiêṃ thân và cơ thể người (embodiment and body organs) 
Theo Evans (2007, p.66), lí thuyết về sự nghiệm thân được định nghĩa như sau: “Tư 
duy của con người và việc tổ chức, sắp xếp các ý niệm là cách thức mà trong đó các bộ 
phận cơ thể của chúng ta tương tác với môi trường sống ở bên ngoài. Nói cách khác, bản 
chất của các ý niệm và cách thức mà chúng được sắp xếp được giới hạn bởi kinh nghiệm 
nghiệm thân của chúng ta”. Một mặt, điều này kéo theo là chúng ta có được một cái nhìn 
đối với thế giới thực thể nhờ vào các bộ phận trên cơ thể con người. Một mặt, điều này 
khiến cho chúng ta có thể nhận thức thực tại thông qua kinh nghiệm có được nhờ vào sự 
tương tác giữa các bộ phận cơ thể người với thế giới khác quan; mặt khác, vì ngôn ngữ 
phản ánh các cấu trúc ý niệm nên nó cũng phản ánh các kinh nghiệm nghiệm thân. Điều 
này có nghĩa là, tư duy của con người và các tổ chức ý niệm được hình thành dựa trên cơ 
sở sự tương tác giữa cơ thể chúng ta với môi trường sống; bản chất của các ý niệm và cách 
thức mà chúng được cấu trúc được quyết định bởi những kiến thức mang tính nghiệm thân 
của chúng ta. 
Theo Trinh (2016), trí não của con người, thông qua những trải nghiệm hoặc có tính 
cá nhân hoặc dựa vào hệ thống ý niệm của cộng đồng diễn ngôn, dung nạp, xử lí, lưu trữ, 
phục hồi và cả truy xuất tri thức không hoàn toàn thụ động mà có tính tương tác theo 
những phương thức tri nhận nhất định. Theo ông, có ba phương thức nghiêṃ thân sau đây: 
Thứ nhất là nghiệm thân sinh lí, xuất phát từ thân xác con người, là loaị tương tác dễ quan 
sát nhất. Thứ hai là nghiêṃ thân tự nhiên, là sư ̣ tương tác của cơ thể con người với môi 
trường vật chất xung quanh mà trong đó, chủ thể tri nhận và môi trường tri nhận có sư ̣tác 
động qua lại, ảnh hưởng lâñ nhau. Trải nghiệm cuối cùng là nghiệm thân văn hóa, hay còn 
goị là nghiệm thân xã hội, là tri nhận của chúng ta bị ràng buộc hay gắn liền với tri thức 
nền, với niềm tin, với những chia sẻ chung về văn hóa của một côṇg đồng người bản xứ. 
2.2. Kết cấu cố điṇh dưới góc nhı̀n của ngôn ngữ hoc̣ tri nhâṇ (idiomatic structures 
under the cognitive perspective) 
Langlotz (2006, p.5) đưa ra định nghĩa về thành ngữ hoặc những cấu trúc có tính 
thành ngữ như sau: 
Thành ngữ là một cấu trúc có tính tổ chức, bao gồm hai hoặc nhiều mục từ và được cấu trúc 
thành một cụm từ hoặc nửa mệnh đề, cái mà có những đặc tính rất riêng biệt về mặt cấu trúc. 
Một thành ngữ trước hết sẽ có chức năng diễn ngôn, mang tính bóng bẩy và có hình thái khu 
biệt; ngữ nghĩa của cấu trúc, về nguồn gốc, không mang tính sắp xếp; ngoài ra, thành ngữ có 
hı̀nh thức cố định và rất bị hạn chế trong sắp đặt. 
Kovecses (2010, p.231-232) thı̀ đưa ra quan điểm rằng, “Cái đơn vi ̣ ngôn ngữ mà 
chúng ta hay goị là thành ngữ là rất đa daṇg. Nó là môṭ đơn vi ̣ ngôn ngữ trên từ, thường 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 692-704 
694 
đươc̣ cấu taọ từ hai thành tố trở lên và ngữ nghıã của nó không thể suy ra đươc̣ từ ngữ 
nghıã của các thành tố bên trong nó. Thành ngữ có thể bao gồm các biến thể khác nhau 
như là biểu thức ẩn du,̣ biểu thức hoán du,̣ cuṃ từ thành ngữ, thành ngữ cú pháp, cấu trúc 
so sánh hay đăc̣ ngữ 
Evans và Green (2006) thì dùng thuật ngữ “đăc̣ ngữ” khi nói về các kết cấu có tı́nh 
thành ngữ này. Các tác giả lập luận rằng, đặc ngữ là các biểu thức ngôn ngữ mà người nói 
không thể tạo ra chỉ đơn giản bằng cách biết ngữ pháp và từ vựng của ngôn ngữ đó. Đây là 
lí do tại sao mà các đặc ngữ được mô tả như là một đơn vị ngôn ngữ có sẵn. Thay vào đó, 
một người nói phải nghiên cứu toàn thể biểu thức chứ không phải chỉ nghiên cứu từng mục 
từ vựng riêng lẻ. (p.643) 
Như vâỵ, có thể thấy rằng, dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học 
tri nhận trên đây, trong tiếng Anh, nội hàm của kết cấu cố định có tı́nh bao quát hơn nhiều 
so với các thuật ngữ có liên quan khác, chẳng haṇ thành ngữ hay kết cấu có tı́nh thành ngữ. 
Trong rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ hoc̣ thế giới, “idioms” là 
thuâṭ ngữ đươc̣ sử dụng thông duṇg nhất, măc̣ dù, các nhà ngôn ngữ hoc̣ vâñ chưa có môṭ 
định nghĩa thống nhất hoàn toàn về thành ngữ, đăc̣ biêṭ là các đơn vi ̣ ngôn ngữ tương đồng 
có liên quan khác. 
2.3. Cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu cố định 
Theo Geeraerts (2006, p.435-436), ngữ nghıã của môṭ kết cấu cố điṇh có tı́nh thành 
ngữ đươc̣ hı̀nh thành qua hai giai đoaṇ: Giai đoaṇ môṭ là giai đoaṇ mà ngữ nghıã kết hơp̣ 
đươc̣ taọ thành (nghıã đen), nói cách khác, ngữ nghıã của kết cấu đươc̣ hı̀nh thành dưạ trên 
nghıã kết hơp̣ của từng thành tố trong kết cấu đó. Ở giai đoaṇ tiếp theo, nghĩa đen này se ̃
được kích hoạt trong mối liên hệ giữa ngữ nghıã của toàn bô ̣cấu trúc với nghıã của từng 
thành phần của kết cấu đó, trong đó có vai trò quan trọng của các cơ chế tri nhận bao gồm 
ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm, tri nhận nghiệm thân và mô hình văn hóa. 
Geeraerts đề xuất thuâṭ ngữ cấu trúc hình lăng trụ (xem hı̀nh) để đề câp̣ các mối quan 
hê ̣và quá trı̀nh taọ nghıã của các kết cấu cố định. Nôị hàm của thuâṭ ngữ này đươc̣ giải 
thı́ch như sau. Thứ nhất, phạm vi các mối quan hệ ngang và quan hệ dọc của các thành ngữ 
cũng như là các kết cấu cố định có tính hai chiều. Trong quan hệ theo chiều ngang, đầu tiên 
se ̃ bao gồm mối liên hê ̣ giữa ngữ nghıã gốc (nghıã đen) với ngữ nghıã phát sinh (nghıã 
bóng) của toàn bô ̣kết cấu; sau đó, nó se ̃bao gồm mối liên hê ̣giữa ngữ nghıã gốc (nghıã 
đen) giữa từng thành tố trong kết cấu với ngữ nghıã của chúng mới đươc̣ phát sinh (nghıã 
bóng). Trong quan hệ theo chiều doc̣, môṭ măṭ, đầu tiên se ̃có sư ̣liên hê ̣về ngữ nghıã giữa 
các thành tố trong kết cấu; sau đó, măṭ khác, se ̃là mối liên hê ̣của toàn bô ̣kết cấu, và tất 
nhiên là trên cả hai măṭ nghıã: nghıã đen lâñ nghıã bóng. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trần Trung Hiếu 
695 
Mô hı̀nh lăng tru ̣về mối quan hệ và quá trı̀nh tạo nghıã của các kết cấu cố định 
1. Toàn bộ kết cấu theo nghıã đen; 2. Yếu tố thứ nhất trong kết cấu theo nghıã đen; 
3. Yếu tố thứ hai trong kết cấu theo nghıã đen; 4. Toàn bộ kết cấu theo nghıã phái sinh; 5. 
Yếu tố thứ nhất trong kết cấu theo nghıã phái sinh; 6. Yếu tố thứ hai trong kết cấu theo 
nghıã phái sinh. 
2.4. Ẩn du ̣ý niêṃ – mô hình ý niệm quyết định cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu cố điṇh 
Kovecses (2010, p. 233) cho rằng, hầu hết các thành ngữ đều là sản phẩm của hệ 
thống ý niệm của chúng ta và chúng không đơn giản chỉ một vấn đề của ngôn ngữ (hay nói 
cách khác, là một vấn đề thuộc từ vựng học). Một thành ngữ không đơn thuần chỉ là một 
biểu thức có mối quan hệ ý nghĩa đặc biệt với ngữ nghĩa của các bộ phận cấu thành của nó 
mà nó phải đươc̣ sinh ra từ tri thức tổng quát của chúng ta về thế giới, cái mà được nghiêṃ 
thân trong hệ thống ý niệm của chúng ta; nói cách khác, thành ngữ (hoặc ít nhất, phần lớn 
trong số chúng), về mặt bản chất, mang tính ý niệm. Nếu vậy, kể từ đây, chúng ta nhận 
thức đươc̣ rằng, ngữ nghĩa của thành ngữ cần được kích hoạt, chứ không phải là tùy tiện; 
tri thức đó sẽ kích hoạt cho ý nghĩa phổ quát của thành ngữ. Kovecses nhấn maṇh rằng, 
trong hầu hết các thành ngữ, từ vựng có thể được kích hoạt là nhờ vào những cơ chế tri 
nhận để liên kết các miền tri thức với ý nghĩa của thành ngữ, một trong những cơ chế có 
vai trò quan trọng đó là phép ẩn dụ. 
3. Hıǹh thức của kết cấu “X + bô ̣phâṇ cơ thể người” trong tiếng Anh 
3.1. Hı̀nh thức của yếu tố X 
Về hı̀nh thức, yếu tố X trong các kết cấu “X + từ chỉ BPCTN” tiếng Anh rất đa daṇg: 
“X” có thể là đôṇg từ, tı́nh từ, đaị từ, danh từ hoăc̣ là giới từ; vi ̣ trı́ của yếu tố “X”: vừa có 
thể đứng trước cũng có thể đứng sau danh từ chı̉ BPCTN tùy thuôc̣ vào từng trường hơp̣ 
cu ̣thể. 
3.2. Ngữ nghıã của yếu tố X 
Yếu tố X trong các kết cấu tiếng Anh rất đa dạng và phong phú về măṭ ngữ nghıã, 
biểu đạt các hành đôṇg, trạng thái tâm lí, ý chí, tình cảm, danh dự, cảm xúc hay các hoạt 
động khác của người Anh, cu ̣thể như sau: “X” là danh từ: bao gồm danh từ chı̉ người, con 
vâṭ, đồ vâṭ, hành đôṇg, các hiêṇ tươṇg tư ̣nhiên, hướng giao thông, số đếm, sư ̣vâṭ sư ̣viêc̣, 
thưc̣ phẩm, hay traṇg thái vâṭ lí; “X” là tı́nh từ: bao gồm tı́nh từ chı̉ ánh sáng, bêṇh tâṭ, 
1 
4 
2 3 
5 6 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 692-704 
696 
miêu tả con người, đăc̣ điểm, tı́nh chất, không gian, nhiêṭ đô,̣ số đếm, traṇg thái vâṭ lí, màu 
sắc, tı́nh từ sỡ hữu; “X” là đôṇg từ: bao gồm đôṇg từ chı̉ chuyển đôṇg, hành đôṇg, lời nói 
và lưc̣ tác đôṇg; “X” là giới từ: bao gồm giới từ chı̉ hướng chuyển đôṇg, chı̉ vi ̣ trı́, chı̉ 
không gian; “X” là đaị từ: là những đaị từ bất điṇh hoăc̣ đaị từ sở hữu. 
3.3. Phân chia từ chı̉ bô ̣phâṇ cơ thể người trong tiếng Anh – Mĩ 
Theo kết quả khảo sát, có tổng côṇg 391 kết cấu “X + từ chỉ BPCTN” trong tiếng 
Anh – Mĩ. Nếu phân chia từ chỉ BPCTN thành từ chỉ bộ phận bên trong và bên ngoài theo 
quan điểm phân chia của Ning Yu (2002) thı̀ có 10 từ chỉ bô ̣phâṇ bên ngoài với 240 kết 
cấu và 4 từ chỉ bô ̣phâṇ bên trong với 151 kết cấu. Nếu phân chia từ chỉ BPCTN thành các 
vùng theo quan điểm phân chia của Sharifian (2011) thì vùng đầu có 9 từ chỉ bô ̣phận với 
245 kết cấu; vùng buṇg có 1 từ chỉ bộ phâṇ với 4 kết cấu; vùng ngưc̣ có 2 từ chỉ bô ̣phâṇ 
với 97 kết cấu; và tứ chi có 2 từ chỉ bô ̣phâṇ với 45 kết cấu. 
4. Mô hıǹh tri nhâṇ ẩn du ̣ý niêṃ của kết cấu “X + từ chỉ bô ̣phâṇ cơ thể người” 
trong tiếng Anh 
4.1. Bô ̣phâṇ cơ thể người là VẬT CHỨA 
Theo Lakoff và Johnson (2003, p.29), con người là những thực thể vâṭ lí đươc̣ bao 
bọc và tách biêṭ với thế giới chung quanh bởi bề măṭ lớp da và chúng ta tri nhâṇ thế giới 
xung quanh như là những thứ tồn tại ở bên ngoài cơ thể mình. Mỗi môṭ con người, do vâỵ, 
là môṭ vật chứa với môṭ bề măṭ đã bi ̣ giới haṇ và đươc̣ điṇh hướng theo nguyên tắc bên 
trong – bên ngoài. Trên cơ sở đó, con người laị phóng chiếu chı́nh sư ̣định hướng bên trong 
– bên ngoài đó lên các vâṭ thể vâṭ lí khác mà cũng bi ̣ giới haṇ bởi các bề măṭ. Chúng ta hãy 
xem xét một số vı́ du ̣cụ thể như sau: 
(1) It goes to the heads of cowards as quickly as of heroes [Mitchell (2011), Gone with 
the Wind, p.1005] (bản dic̣h: Nó bốc lên đầu rất nhanh, đối với kẻ hèn nhát cũng như đối 
với người anh hùng): trong tri nhâṇ của người Anh, “đầu” người là môṭ vâṭ thể chứa, chứa 
đựng trong nó những SUY NGHĨ, TƯ DUY; nếu có cái gı̀ đi vào trong “đầu” của môṭ 
người thı̀ có nghıã là người đó đang suy nghı ̃về môṭ vấn đề gì đó. 
(2) For when Philippe, with his snapping eyes and his wild ways, left Savannah forever, 
he took with him the glow that was in Ellen’s heart [Mitchell (2011), Gone with the Wind, 
p.84] (bản dic̣h: Vı ̀ khi Philippe với căp̣ mắt linh hoaṭ và tác phong sôi nổi gia ̃ từ 
Savannah ra đi maĩ maĩ, chàng đã mang theo ngoṇ lửa trong tim Ellen): “tim” người Anh 
đươc̣ tri nhâṇ là môṭ vật chứa, bên trong nó vâṭ đươc̣ chứa là TÌNH CẢM hay CẢM XÚC 
của con người; có cái gı̀ đó ở trong “tim” là có tı̀nh cảm hay cảm xúc. 
(3) Suellen and Carreen were clay in her powerful hands and harkened respectfully to 
her warning [Mitchell (2011), Gone with the Wind, p.152] (bản dic̣h: Trong đôi tay quyền 
lực của bà, Suellen và Careen đươc̣ nhào năṇ như đất sét và răm rắp nghe theo lời đe neṭ 
của bà): trong “tay” của người nào có cái gı̀ là người đó nắm quyền kiểm soát hay có 
quyền lưc̣. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trần Trung Hiếu 
697 
Các từ chỉ BPCTN trong tiếng Anh với tư cách là VÂṬ CHỨA là miền nguồn cho rất 
nhiều ý niệm đích khác nhau, bao gồm từ các ý niêṃ sư ̣kiêṇ, sư ̣vâṇ đôṇg, đến hoaṭ đôṇg 
hay trạng thái. Theo quan điểm của Lakoff và Johnson (2003, p.30-31), tất cả những 
ADYN này đều là những ADYN bản thể. Trên cơ sở đó, trong văn hóa của người Anh, các 
ý niệm SỰ KIÊṆ, SỰ VẬN ĐÔṆG có thể đươc̣ xem như là những vâṭ thể, do vâỵ chúng 
có thể đươc̣ người Anh tri nhận như là các vâṭ chứa, còn các ý niệm HOAṬ ĐÔṆG laị có 
thể được xem như là những vật chất, nên chúng se ̃đươc̣ tri nhâṇ như là những vâṭ chất 
chứa; tương tự như vâỵ, các ý niêṃ TRAṆG THÁI cũng đươc̣ xem như là những vâṭ chứa 
và bao chứa bên trong nó các vật chứa khác nhau trong mô hı̀nh ánh xạ BÔ ̣PHÂṆ CƠ 
THỂ NGƯỜI LÀ VÂṬ CHỨA. 
4.2. Tı́ch cưc̣ là HƯỚNG LÊN, tiêu cưc̣ là HƯỚNG XUỐNG 
Theo Lakoff và Johnson (2003, p.14), nếu như ẩn du ̣cấu trúc se ̃phóng chiếu toàn bô ̣
cấu trúc của một ý niêṃ này lên môṭ ý niệm khác thì ẩn du ̣điṇh hướng sẽ tổ chức laị toàn 
bộ hê ̣thống ý niệm này trong mối quan hê ̣với môṭ hê ̣thống ý niêṃ khác. Các ADYN có 
liên quan đến điṇh hướng trong không gian bao gồm: lên – xuống, bên trong – bên ngoài, 
trước – sau, trung tâm – ngoaị vi, v.v. Chúng ta hãy xem xét môṭ số vı́ du ̣cu ̣thể trong tiếng 
Anh như sau: 
- TÍCH CỰC/ NHIỀU LÀ HƯỚNG LÊN: 
(4) They could hold up their heads now [Mitchell (2011), Gone with the Wind, 
p.613] (bản dic̣h: Giờ đây ho ̣có thể ngẩng cao đầu): khi môṭ người Anh “ngẩng cao đầu” 
thì có nghĩa là người đó có sư ̣tư ̣hào hay hañh diêṇ vı̀ môṭ cái gı̀ đó. Cơ sở tri nhâṇ luâṇ 
của ADYN này đươc̣ dưạ trên trải nghiệm nghiệm thân sinh lí: khi có tác nhân từ bên 
ngoài tác động vào làm cho môṭ người có cảm giác hañh diện hay tư ̣hào, kéo theo đó trong 
cơ thể se ̃sinh ra các hiệu ứng sinh lí kı́ch thı́ch chúng ta ngẩng cao đầu, đầu và măṭ nhìn về 
phía trước, trải nghiêṃ này là có tı́nh phổ quát đối với nhiều dân tôc̣ trên thế giới và đối 
với người Anh cũng vâỵ. 
- CAO HƠN LÀ MAṆH HƠN: 
(5) After hours of fierce negotiations, the president gained the upper hand 
[Cambridge Advanced Learner’s Dictionary (2008, 3rd Edition), p.100] (taṃ dic̣h: Sau 
nhiều giờ đồng hồ thương thuyết quyết liệt, cuối cùng tổng thống cũng đa ̃ giành đươc̣ 
quyền lưc̣ về tay mı̀nh): ADYN này đươc̣ đặt cơ sở tri nhận luận dưạ trên sư ̣nghiệm thân 
tự nhiên rằng chiều cao sẽ tương liên với sức mạnh, nếu môṭ người ở vi ̣trı́ cao hơn, ho ̣se ̃
có ưu thế so với người khác. Cơ sở kinh nghiêṃ luâṇ này đa ̃đăṭ nền tảng cho môṭ quy ước 
trong văn hóa của người Anh nói chung và người phương Tây nói riêng rằng, người thắng 
cuôc̣ se ̃luôn đứng ở vị trı́ cao hơn những người khác. 
- TIÊU CỰC/ ÍT LÀ HƯỚNG XUỐNG: ngươc̣ laị với các vı́ du ̣trên, trong vı́ du ̣sau, 
hướng xuống se ̃thay cho sư ̣tiêu cưc̣ hay có số lươṇg ı́t: 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 692-704 
698 
(6) Her face fell when she heard he wasn't coming [Cambridge Advanced Learner’s 
Dictionary (2008, 3rd Edition), p.500] (taṃ dic̣h: Nghe tin anh ấy không đến đươc̣, măṭ cô 
ấy xịu xuống. Ví du ̣này có cơ sở tri nhâṇ luâṇ là sự nghiêṃ thân sinh lí: khi con người 
buồn hay thất vọng, chúng ta thường cúi đầu xuống hay cơ thể của chúng ta bi ̣ chùng 
xuống. 
Từ các kết quả khảo sát và phân tích, chúng tôi thấy rằng, trong văn hóa của người 
Anh, trải nghiệm của cơ thể con người theo phương thẳng đứng có vai trò rất quan troṇg 
trong viêc̣ ý niêṃ hóa của người Anh. Định vi ̣ cơ thể người theo phương thẳng đứng với bô ̣
phận “đầu” ở vị trí cao nhất và là trung tâm đa ̃đăṭ cơ sở tri nhâṇ luâṇ cho hê ̣ thống các 
ADYN TÍCH CỰC/NHIỀU LÀ HƯỚNG LÊN, TIÊU CỰC/ÍT LÀ HƯỚNG XUỐNG. 
ADYN này là sự phản ánh các trải nghiêṃ nghiệm thân của người Anh nói riêng và con 
người nói chung trong tương tác với môi trường chung quanh, nó vừa mang tı́nh phổ quát, 
vừa mang tı́nh đăc̣ thù văn hóa của dân tôc̣ Anh. 
4.3. Cảm xúc là TRẠNG THÁI VẬT LÍ CỦA VẬT THỂ 
Chúng ta thấy rằng, mô hı̀nh tri nhâṇ CẢM XÚC LÀ TRẠNG THÁI VÂṬ LÍ CỦA 
VẬT THỂ là môṭ tiểu loaị của mô hı̀nh TINH THẦN LÀ VÂṬ CHẤT. Theo Lakoff và 
Johson (2003, p.33-34), nhờ vào sự nhân cách hóa thế giới tinh thần, thông qua những trải 
nghiệm nghiệm thân tự nhiên, hay nói cách khác, thông qua viêc̣ con người có thể cầm, 
nắm, sờ, thấy các vâṭ thể cu ̣thể, các miền nguồn là các thuôc̣ tı́nh vâṭ lí của các vâṭ thể này 
se ̃ánh xa ̣đến miền đı́ch la

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_tri_nhan_an_du_y_niem_cua_ket_cau_x_tu_chi_bo_phan_c.pdf
Tài liệu liên quan