Kỹ năng đàm thoại trong Tiếng Anh những kinh nghiệm hữu ích cho giao tiếp hàng ngày
Tóm tắt: Nắm bắt và làm chủnhững kỹnăng giao tiếp hàng ngày đóng góp không nhỏvào
thành công của các mối quan hệliên nhân trong cộng đồng. Bài báo giới thiệu những kỹnăng đàm
thoại trong tiếng Anh, nhất là khía cạnh phân tích ngữdụng, qua đó rút ra những kinh nghiệm hữu
ích cho giao tiếp trong đời sống hàng ngày.
Summary: Acquisition and mastery of daily communication skills do contribute to the success
of interpersonal relations in the community. This article introduces the oral communication skills in
English, particularly from the aspect of pragmatics analysis, thereby, proposes useful tips for daily
life conversations.
húng ta nói ra một điều gì thì đã đồng thời hàm ý một điều gì đó khác, có thể chỉ ở cấp độ hành vi ngôn trung, hay xa hơn nữa là hành vi mượn lời. Trừ trường hợp các phát ngôn chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin, thì hành vi ngôn ngữ có thể dừng ở cấp độ hành vi tạo lời. Ví dụ: A: Where are you from? (A: Anh quê ở đâu? (Anh từ đâu đến?)) B: Hoa Binh. (B: Tôi người Hòa Bình. (Hòa Bình)). Với đặc thù về văn hóa và ngôn ngữ của Tiếng Việt, các hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp đồng thời xảy ra ở cả ba cấp độ là chuyện rất thường xuyên. Vì lẽ đó, trên thực tế, chúng ta vẫn gặp những trường hợp phản ứng quá mức từ phía người nghe, hay sự “bằng mặt mà không bằng lòng”, một phần cũng là do sự nhạy cảm quá mức khi giao tiếp hay phiên dịch không sát ý người nói. Trong ngữ dụng học, các nhà nghiên cứu như Austin (1962) hay Searle (1968) có những quan điểm khác nhau về hành vi ngôn ngữ. Searle tuy đồng tình với Austin, nhưng đã có một bước phát triển hiện đại, thông thoáng hơn khi ông cho rằng không cần phải phân biệt giữa hành vi tạo lời và hành vi ngôn trung bởi vì trên thực tế giao tiếp, hai hành vi này hầu như luôn đồng thời xảy ra. Searle phân loại các hành vi ngôn ngữ khi giao tiếp theo các nhóm chức năng sau đây: • Thể hiện, miêu tả (Representatives): là việc người nói trình bày sự thực về sự vật, sự việc xung quanh, nhằm chuyển tải thông tin đến người nghe (VD 1). Nói chung, những điều gọi là “sự thực” này cũng có khi chỉ là những điều chúng ta quả quyết về một thực tế của một “giá trị giả” (VD 2: Có những loài chó bé hơn mèo rất nhiều). VD 1: A dog is an animal. (Chó là một loài động vật). VD 2: A dog is bigger than a cat. (Chó lớn hơn mèo). • Chỉ thị, cầu khiến (Directives): là việc người nói muốn người nghe làm điều gì. Hành vi này thường gặp trong loại câu mệnh lệnh, yêu cầu hay câu hỏi. VD: Please, close the door for me. (Anh làm ơn đóng hộ tôi cái cửa). When will she arrive? (Bao giờ thì chị ấy đến?). • Cam kết (Commissives): là việc người nói muốn khẳng định với người nghe là anh ta sẽ làm điều gì đó (VD 1). Hành vi ngôn ngữ này có thể dẫn đến sự thay đổi tình trạng, cải thiện quan hệ giữa người nói và người nghe (VD 2). VD 1: I plan to go to HCMC tomorrow. (Mai tôi có kế hoạch đi thành phố HCM rồi). VD2: I promise I will bring you for dinner sometime. (Anh hứa lúc nào đó sẽ đưa em đi ăn tối). • Tuyên bố (Declarations): là việc người nói tuyên bố những điều sẽ có thể gây ra những thay đổi lập tức về tình trạng, cải thiện mối quan hệ (VD 1), hay việc người nói có quyền lực nhất định để thực hiện tuyên bố đã phát ra (VD 2). VD 1: I did say I loved you. (Anh đã nói yêu em rồi mà). VD 2: I hereby declare you man and wife. (Sau đây tôi xin tuyên bố hai người là vợ chồng). • Diễn cảm (Expressives): là việc người nói giãi bày, thổ lộ trạng thái tình cảm, tâm lý. VD: I am troubled by what has happened. (Tôi áy náy vì việc đã xảy ra). I love Martha. (Mình yêu Martha). (Tất cả những ví dụ trên đây được dẫn từ các bài giảng của tiến sĩ Lim, B.S. giảng viên của Trung tâm Tiếng Anh khu vực, Singapore và của thạc sĩ Hoàn Xuân Thơm, giảng viên đại học Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội.) Bàn về kỹ năng đàm thoại, ngoài những điều trình bày ở trên còn có rất nhiều vấn đề liên quan, chẳng hạn; những điều kiện (Felicity) để các phát ngôn có nghĩa (making sense) và có giá trị (valid), những hành vi gây mất thể diện (Face Threatening Acts), hay lý thuyết về hàm ý, hàm ngôn (Conversational Implicature Theory), v.v... Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả chỉ giới thiệu những yếu tố gây ảnh hưởng tức thì, rõ rệt nhất đến hiệu quả giao tiếp. Những nội dung khác sẽ được trình bày rõ hơn ở các bài báo sau. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Thật không đơn giản và dễ dàng chút nào để trở thành một người hoạt ngôn, khéo nói, tuy nhiên, đây là việc có thể rèn luyện được. Từ những kỹ năng đàm thoại cơ bản trình bày trên đây, có thể rút ra một vài bài học kinh nghiệm như sau: ) Cần nắm được các tiêu chí Chính xác và Trôi chảy trong giao tiếp, trong đó có liên quan đến việc sử dụng nhuần nhuyễn các yếu tố ngôn ngữ như các loại từ nối, lựa chọn ngữ điệu, tông giọng phù hợp với nội dung muốn diễn đạt, lựa chọn ngôn từ và cách thức diễn tả thích hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp, và dùng đúng cấu trúc ngữ pháp để diễn tả nội dung. Trong trường hợp người nói và người nghe không có chung một vốn thuật ngữ (jargon), hay có sự khác biệt về cách phát âm, phương ngữ thì cần thiết phải làm rõ ý mình muốn nói, muốn hiểu. Ví dụ: người nói khi thấy vẻ băn khoăn trên nét mặt của người nghe, thì có thể trình bày lại hoặc giải thích rõ ý của mình: What I mean is … (Ý tôi muốn nói là …). I want to tell you that … (Tôi muốn nói với chị là …). Còn khi người nghe không nghe rõ, hay không hiểu hết ý của người nói thì cần hỏi lại cho rõ nghĩa: You mean …? Is that right that…? (Có phải anh định nói là …? Có đúng là…?). What do mean by saying that…? (Chị nói thế nghĩa là sao?). Việc phải giải thích hay hỏi lại này có thể làm kéo dài thời gian trao đáp, nhưng vẫn là một giải pháp tích cực thay vì để mặc sự phiên dịch sai (misinterpretation) xảy ra, dẫn đến hiểu sai nội dung (miscommunication) hay hiểu lầm lẫn nhau (misunderstanding). Những hiểu biết nhất định về Ngữ dụng học cũng rất hữu ích cho khả năng truyền tải và hiểu đúng nội dung giao tiếp. Ngoài ra, kiến thức về văn hóa (phong tục, tập quán) giữa các vùng, miền, dân tộc; về ngôn ngữ cử chỉ, hình thể, ánh mắt, khoảng cách cũng giúp ích rất nhiều cho khả năng giao tiếp lưu loát giữa hai đối tượng. Trên thực tế, vẫn xảy ra trường hợp khi người nói cố tình diễn đạt lấp lửng, để mặc người nghe muốn hiểu sao thì hiểu, còn người nghe, vì ngại ngần, tự ti hay vì lý do này khác, lại không muốn hỏi rõ ra. Thế nên mới có câu ca dao rằng: “Người khôn ăn nói nửa chừng Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Dẫu sao đây cũng là “muôn mặt đời thường”, tạo nên sự phong phú, phức tạp nhưng thú vị của cuộc sống. ) Từ thực tế cuộc sống, có thể hình dung một cuộc đàm thoại ‘có đầu có cuối’ bao gồm các phần như sau: - Phần mở đầu (opening): Các chủ đề được lựa chọn cho phần mở đầu câu chuyện rất khác nhau, tùy thuộc vào giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội, văn hóa, v.v... của những người tham gia đàm thoại. Phụ nữ thường bắt đầu câu chuyện về giá cả, mỹ phẩm, thời trang,… trong khi nam giới hay nói về bóng đá, công việc, quan chức, chứng khoán,… Thiếu niên gặp nhau “buôn chuyện” về trường, lớp, bạn bè, games, hip - hop, … còn các cụ ông cụ bà hay nói nhiều về bệnh tật, cách đối xử của con cái, … Cần lưu ý là những nền văn hóa khác nhau có những sự cấm kỵ (taboo) khác nhau. Người Việt Nam hầu như không kiêng kỵ điều gì về các chủ đề đàm thoại, nhất là giao tiếp thực hiện giữa những người quen biết, trừ trường hợp nói chuyện to, cười đùa nơi đám tang. Phụ nữ Myanmar không được phép nhìn lên khi nói chuyện với nam giới, còn nói chuyện về công việc với người Timor Leste là điều nên tránh. Theo thuyết Lịch sự âm tính và dương tính, người phương Tây không thích chuyện trò về các chủ đề riêng tư, có thể bị coi là soi mói. - Phần nội dung (body): Khi hai đối tượng đã cùng hòa nhịp vào một chủ đề đàm thoại, cần lưu ý đến cách duy trì câu chuyện; người nghe cần có những cách thể hiện sự quan tâm đến câu chuyện của người nói bằng cử chỉ, ánh mắt, diễn tả nét mặt hay dùng ngôn từ (cảm thán, hư từ, câu hỏi đuôi, …) thay vì chỉ im lặng. Ngược lại, người nói cũng không nên độc thoại quá lâu, khiến cho người nghe không có cơ hội để ngắt lời hay có ý kiến gì. Hơn thế nữa, người nói phải rất tinh ý để nhận ra chủ đề nào có thể/ hình như đang gây mất thể diện (FTA) cho người nghe, hay đã “nhạt” mất rồi và khéo léo chuyển đề tài. - Phần kết thúc (closing): Đây là kỹ năng mà người Việt ít để ý, nên thường có cách kết thúc rất đột ngột, đôi khi thô thiển, làm giảm đi sự thú vị hay ấn tượng dễ chịu của cuộc giao tiếp. Cần chọn thời điểm thích hợp để đưa ra lý do kết thúc. Hãy nêu lý do nào có lý nhất, dễ nghe nhất, dù có thể chỉ là ngụy tạo, bởi vì không mấy ai kiểm chứng xem lý do đó có xác thực không. Trường hợp người nói đang say sưa câu chuyện, mà người nghe đang phải vội đi, thì người nghe hãy khéo léo biểu lộ cử chỉ nào đó cho người nói thấy mình còn đang dở việc khác, không nói chuyện lâu được (VD: liếc nhìn đồng hồ, tỏ vẻ không còn hứng thú, nhìn đi chỗ khác …), hoặc thẳng thắn ngắt lời bằng cách nói, giọng nói, ngôn từ mềm dẻo nhất có thể được (VD: Ê này, mai gặp, “buôn” tiếp nhé. Mình phải vào lớp bây giờ. Sinh viên đang chờ…). Tóm lại, để đàm thoại thành công, ngoài việc nắm vững các kỹ năng, cần có sự tương tác ăn ý, tung hứng nhịp nhàng giữa người nghe và người nói, điều này phụ thuộc nhiều vào khả năng nhạy cảm, tinh ý, khéo léo của mỗi người khi tham gia giao tiếp. V. KẾT LUẬN Bàn về giao tiếp bằng ngôn ngữ nói là một vấn đề nghiên cứu rất rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều khía cạnh; ngôn ngữ, văn hóa, giới tính, xã hội, tâm sinh lý, ... Bài báo này chỉ tập trung vào một vài yếu tố cơ bản, dễ nhận biết, có thể rèn luyện được nếu để tâm lưu ý. Đặc biệt, những khái niệm khái quát về ngữ dụng sẽ giúp người đọc chú ý hơn đến các phát ngôn của mình, từ đó rút ra những bài học hữu ích cho việc đàm thoại trong đời sống hàng ngày. Tài liệu tham khảo [1]. Austin, J.L. 1962. How to do things with words. OUP. [2]. Oral Communication Skills Training, tài liệu tập huấn của RELC, SEAMEO. Tháng 9 năm 2007. [3]. Hornby, A.S. 2000. Oxford Advanced Learner’s Dictionary. OUP. [4]. Searle, J.R. 1968. Austin on locutionary and illocutionary acts. Phylosophical Review, 77, 405-424♦
File đính kèm:
- 08_2010_1347_kndt_3373.pdf