Kiến thức nền của sinh viên Tiếng Anh A1 tại ĐH KHXH và NV: Thực trạng và đề xuất giải pháp
Robert Lado đã định nghĩa mục đích
của việc học một ngoại ngữ là khả năng sử
dụng ngôn ngữ đó, hiểu rõ được các tầng ý
nghĩa của nó trong ngôn ngữ và văn hóa
ngôn ngữ muốn học, cũng như khả năng
hiểu được văn bản nói và viết của nền văn
hóa đó về mặt ý tưởng và kết quả đạt được
(Lado, 1964: 25). Vì thế, việc giảng dạy
tiếng Anh cho học sinh sinh viên không thể
tách rời với việc tìm hiểu về nền văn hóa
của đất nước có ngôn ngữ mà chúng ta
muốn học. Việt Nam bước vào thời kỳ hội
nhập với nhu cầu mở cửa tiếp xúc với thế
giới cũng như chào đón các bạn quốc tế
vào giao lưu và làm việc ngày càng cao.
Do đó, nhu cầu học tiếng Anh cũng càng
ngày càng nhiều, và nhu cầu hiểu biết về
các nền văn hóa của các nước nói tiếng
Anh cũng là rất cấp thiết.
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015 62 KIẾN THỨC NỀN CỦA SINH VIÊN TIẾNG ANH A1 TẠI ĐH KHXH&NV: THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NGUYỄN ĐẶNG NGUYỆT HƯƠNG (*) TÓM TẮT Bài viết này nghiên cứu thực trạng về kiến thức nền của sinh viên học tiếng Anh học phần A1 tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn nhằm đánh giá các vấn đề các em gặp phải trong quá trình học và đưa ra thử nghiệm về hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong nhà trường. Trong bài viết này, tác giả đã áp dụng phương pháp điều tra khảo sát (thông qua phát phiếu điều tra) đối với các sinh viên đã học xong học phần tiếng Anh A1 tại trường. Kết quả thu được đã phản ánh một cách khách quan những bất cập trong việc sử dụng các sách giáo trình 100% nội dung nước ngoài vào lớp học ngoại ngữ như việc sinh viên không có khái niệm về các vấn đề được dạy, gây nên một số cản trở tới việc học ngoại ngữ tại trường Đại học KHXH&NV. Từ đó tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để củng cố và tăng cường kiến thức nền cho sinh viên học tiếng Anh tại trường, phần nào giải quyết những tồn tại nói trên. Từ khoá: kiến thức nền, lớp học ngoại ngữ A1 ABSTRACT The report studied the situation of A1 students’ background knowledge in order to examine strong points as well as problems. The research was conducted with survey on students of English, as well as interviews with students and teachers. Based on what the research found, the author suggests some solutions to improve the quality of the classes. Keywords: background knowledge, A1 level, USSH 1. ĐẶT VẤN ĐỀ* 1.1. Lý do chọn đề tài Robert Lado đã định nghĩa mục đích của việc học một ngoại ngữ là khả năng sử dụng ngôn ngữ đó, hiểu rõ được các tầng ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ và văn hóa ngôn ngữ muốn học, cũng như khả năng hiểu được văn bản nói và viết của nền văn hóa đó về mặt ý tưởng và kết quả đạt được (Lado, 1964: 25). Vì thế, việc giảng dạy (*) ThS, Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội tiếng Anh cho học sinh sinh viên không thể tách rời với việc tìm hiểu về nền văn hóa của đất nước có ngôn ngữ mà chúng ta muốn học. Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập với nhu cầu mở cửa tiếp xúc với thế giới cũng như chào đón các bạn quốc tế vào giao lưu và làm việc ngày càng cao. Do đó, nhu cầu học tiếng Anh cũng càng ngày càng nhiều, và nhu cầu hiểu biết về các nền văn hóa của các nước nói tiếng Anh cũng là rất cấp thiết. Tuy nhiên, có một thực trạng là xét về 63 mặt bằng chung, sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn nói riêng không có vốn kiến thức nền tốt do thói quen nghiên cứu và nhu cầu sử dụng các kiến thức này tại trường chưa nhiều. Vấn đề này trở nên nghiêm trọng hơn khi trong thực tế giảng dạy, việc thiếu kiến thức nền về các lĩnh vực văn hóa xã hội gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giảng dạy môn tiếng Anh cho sinh viên học tiếng Anh học phần A1 tại trường. Sinh viên hầu như không có hoặc có rất ít kiến thức về phim ảnh, nghệ thuật, âm nhạc của các nước nói tiếng Anh, trong khi sách sử dụng để giảng dạy (New English File Elementary) thì có khá nhiều bài cần đến các kiến thức này, như trong phần dẫn nhập hay các bài đọc. Thực tế giảng dạy cho thấy lỗ hổng về kiến thức này ảnh hưởng khá lớn đến việc sinh viên có hứng thú và khả năng tiếp thu bài học do các em không biết về các nhân vật được nói đến trong bài cũng như các vấn đề xã hội, văn hóa được đề cập đến trong bài. Nhận thức được vấn đề này, người viết đề xuất việc tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng về kiến thức nền của sinh viên để qua đó đánh giá được vấn đề và tìm ra phương hướng giải quyết cũng như tiến hành một số thử nghiệm về phương pháp nâng cao kiến thức nhằm phục vụ mục đích tăng cường hiệu quả bài học cho sinh viên. 1.2. Mục đích nghiên cứu Bài nghiên cứu này nhằm: Chỉ ra được thực trạng về kiến thức nền của sinh viên học tiếng Anh học phần A1. Đề xuất phương pháp củng cố kiến thức nền cho sinh viên học học phần tiếng Anh cơ bản trình độ A1 tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn 2.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của bài viết này là điều tra tình hình thực trạng kiến thức nền của sinh viên học tiếng Anh học phần A1 và thử nghiệm phương pháp củng cố kiến thức tại các lớp A1 gồm FLF1105 1 (tuy nhiên mã lớp này bị hủy sau 8 tuần học), FLF1105 11, FLF1105 48 (mã lớp này bị hủy sau 4 tuần học), FLF1105* 4. 3.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thông qua khảo sát ý kiến của sinh viên đã tham gia học học phần tiếng Anh cơ bản trình độ A1 tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn về các vấn đề trong sử dụng kiến thức nền phục vụ cho việc học tiếng để đánh giá được thực trạng vấn đề này. Một số phỏng vấn sâu cũng được tiến hành với các giáo viên dạy học phần A1 tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Bản phiếu điều tra được phát ra và lấy ý kiến của 50 sinh viên. Kết quả sau đó sẽ được phân tích định lượng. 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Cơ sở lý thuyết Kiến thức nền (background knowledge) được biết đến như kiến thức chúng ta thu thập về rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống từ khi còn nhỏ. Tất cả mọi người từ trẻ nhỏ đến người trưởng thành đều có vốn kiến thức nền riêng của mình, và độ nông-sâu về các lĩnh vực cụ thể là không giống nhau. Trong môi trường trường học, kiến thức nền được định nghĩa là kiến thức mà học sinh có từ nguồn chính thống như trong lớp học, lẫn nguồn không chính thống từ kinh nghiệm cuộc sống. Trong môi trường học thuật hàn lâm, kiến thức nền bao gồm kiến thức về nội dung, ngôn ngữ học thuật và từ vựng cần thiết để hiểu rõ thông tin. Kiến thức cũ (prior knowledge) cũng là một thuật ngữ được sử dụng để định nghĩa kiến thức nền. Một vài người phân biệt 2 thuật ngữ này khi kiến thức cũ là phương 64 tiện để phân chia các trải nghiệm người học có trong cuộc sống, còn kiến thức nền là kiến thức và ngôn ngữ cần thiết để thành công trong việc học một nội dung cụ thể. Dù sử dụng thuật ngữ nào, thì việc phân biệt và cân nhắc 2 khái niệm này cũng là cần thiết khi khơi gợi những trải nghiệm của người học và đánh giá lượng kiến thức các em có về một chủ đề cụ thể. Vai trò của kiến thức nền trong việc học ngoại ngữ là không thể phủ nhận được, đặc biệt trong môi trường học tập mà sinh viên đến từ nhiều nền văn hóa và giáo dục khác nhau. Người học có thể có một lượng kiến thức lớn về một chủ đề bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, nhưng không có đủ vốn từ để diễn đạt những gì họ biết bằng tiếng Anh. Sinh viên khác có thể lại có những gián đoạn trong quá trình học, hoặc kiến thức nền của họ lại không phù hợp với khía cạnh được nhắc đến trong lớp học. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc dạy học và tiếp thu, cũng như cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc đánh giá kiến thức nền và kỹ năng của sinh viên về nội dung sẽ học. Kiến thức nền đóng một vai trò rất đặc biệt với kỹ năng đọc hiểu cũng như để hiểu nổi dung vì một khi đã có kiến thức về một đề tài cụ thể nào đó, học viên sẽ có khả năng gợi nhớ lại và phát triển ý về chủ đề đó. Các nghiên cứu về não bộ và quá trình học tập đã chỉ ra rằng với sinh viên đã có kiến thức về một chủ đề thì việc tiếp nhận thông tin mới về chủ đề đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu sinh viên không quen với đề tài được học, không có những thông tin tiên quyết ví dụ như hoàn cảnh lịch sử thì việc học sẽ trở nên khó khăn hơn. Từ vựng và kiến thức nền cũng là các nhân tố quyết định trong việc học ngoại ngữ (Fisher & Frey, 2009; Kamil et al., 2008) vì từ vựng chính là một chỉ số về kiến thức nền của người học. Một nghiên cứu về việc đọc hiểu đã chỉ ra rằng kiến thức nền và từ vựng là thiết bị dự báo mạnh nhất về khả năng đọc và cũng gián tiếp ảnh hưởng đến việc người học có áp dụng các phương pháp giải quyết vấn đề khi không hiểu được nghĩa của bài hay không (Cromley & Azevedo, 2007). Trong quá trình học, khi bắt gặp bài khóa hoặc giáo viên sử dụng ngôn ngữ hay cấu trúc hàn lâm khó hiểu thì sinh viên cũng sẽ tăng cường sử dụng vốn hiểu biết của mình về chủ đề cụ thể đó (Shanahan & Shanahan, 2008). Người học càng có vốn từ và vốn kiến thức nền rộng thì càng dễ tiếp nhận những thông tin mới từ bài khóa (Alfassi, 2004). Hart & Risley (1995) cũng như Stahl & Fairbanks (1986) đều nhận định rằng kiến thức về từ vựng là yếu tố để dự đoán về điểm số cũng như kết quả thi cử khá chính xác. Các phương pháp củng cố kiến thức nền trong học ngoại ngữ cũng đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Một số các phương pháp có thể được kể ra đây như Đọc thầm, Đọc độc lập, Sắp xếp hình ảnh, Nhân vật thực tế, Thăm quan (thực tế và trên mạng), hay Học ngoại khóa. Internet và các nguồn website trên mạng cũng là một trong những nhân tố cần thiết và hữu ích cho việc khởi động quá trình sử dụng kiến thức nền. Ngoài ra một số nhà sư phạm cũng có nhắc đến việc sử dụng video, tranh ảnh, sử dụng bài tập điền từ vào chỗ trống, hay thảo luận chia sẻ với các bạn cùng lớp. Tuy nhiên, ưu và nhược điểm của từng phương pháp cũng không được đề cập cụ thể. 2.2. Kết quả và thực trạng 2.2.1. Kết quả Trước khi khảo sát về thực trạng về 65 kiến thức nền của sinh viên học tiếng Anh học phần A1 tại ĐHKHXH&NV, tác giả đã thiết kế 1 số câu hỏi liên quan đến việc học ngoại ngữ của người được khảo sát. 100% sinh viên được khảo sát đều đang theo học học phần 1 tiếng Anh cơ bản trình độ A1. Tuy nhiên phần lớn các em (86%) không tự tin với vốn tiếng Anh đã học tại phổ thông của mình và cho rằng mình gặp rất nhiều khó khăn trong việc học môn học này. Các khó khăn của các em chủ yếu nằm ở từ vựng và các cấu trúc diễn đạt (96%). Câu hỏi khảo sát thực trạng kiến thức nền Một số bài sử dụng kiến thức nền trong sách New English File Elementary được sử dụng trong nội dung câu hỏi khảo sát thực trạng kiến thức nền của sinh viên tại các lớp đã được lựa chọn. Bài 1C phần 6 kỹ năng nói với 9 bức hình về các diễn viên nổi tiếng trên thế giới nhưng có đến 96% số sinh viên được hỏi không biết bất cứ 1 ai trong 9 diễn viên này, cũng như không có bất cứ thông tin nào về các bộ film họ đóng. Chỉ có 2 trong số 50 sinh viên tham gia khảo sát nhận ra được bức tranh số 1 được lấy từ phim “Nhật ký tiểu thư Jones” nhưng không biết tên diễn viên. Bài 2A phần 2 kỹ năng đọc có bài về các đặc điểm đặc trưng của người Anh, trong đó có nói đến cà phê cappuccino và món ăn truyền thống là cá và khoai tây chiên nhưng 100% sinh viên không biết về các loại cà phê (cappuccino, espresso, Americano, latte, mocha, etc.) cũng như không biết về các đặc điểm nổi bật của nước Anh cũng như người Anh. Bài 2D phần 1 ngữ pháp có ảnh của 6 nhân vật nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực cùng với người thân của họ. Với lần hỏi đầu tiên, không sinh viên nào biết 6 nhân vật này, nhưng sau khi có gợi ý từ giáo viên, sinh viên đã có thể nhận ra JK Rowling và Kate Winslet, Will Smith và Hugh Grant nhưng số lượng cũng rất ít (khoảng 30%). Với bài 4C phẩn 3 kỹ năng đọc có giới thiệu 5 hình ảnh từ 5 bộ phim nhưng không một sinh viên nào có thể nhận ra các bộ phim này cũng như có bất cứ thông tin nào, ngoại trừ nội dung của phim Romeo và Juliet do đã đọc tác phẩm văn học. Điều tương tự xảy ra với bài 5A phần 4 kỹ năng đọc về 4 bức tượng nổi tiếng ở các quốc gia khác nhau. 2.3. Thực trạng 2.3.1 Nguyên nhân Có thể nhận thấy rằng, việc thiếu hụt kiến thức nền là một thực tế xảy ra tại các lớp học tiếng Anh học phần A1 tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Điều này là do phần lớn sinh viên tại trường có xuất thân từ nông thôn, mới bắt đầu vào cuộc sống sinh viên tại trường nên chưa có kinh nghiệm cũng như ý thức trong việc tìm hiểu những thông tin văn hóa xã hội, hoặc các kiến thức về các nước nói tiếng Anh do trước giờ nhu cầu học tập của các em không đề cập đến mảng này. Thực trạng giáo dục tại phổ thông cũng đi quá sâu vào lý thuyết chứ không tập trung vào thực tế cuộc sống khiến các em không có hứng thú tìm hiểu các vấn đề nóng hổi đang xảy ra trên thế giới. Mặt khác, sự du nhập của văn hóa Hàn Quốc và Nhật Bản một cách ồ ạt cũng khiến cho các em chú ý quá nhiều đến hai nền văn hóa này chứ không để tâm đến các thông tin về các nước nói tiếng Anh. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng, có một số lượng sinh viên sinh sống và học tập tại thành phố, có điều kiện tìm 66 hiểu hơn các bạn khác, nhưng không tự tạo cho mình thói quen học hỏi thêm về các nền văn hóa khác. Các em không chủ động tìm hiểu, không có thói quen đọc hoặc tìm thông tin về các lĩnh vực văn hóa xã hội, điều này khiến cho các kiến thức về mảng này của các em khá yếu, gây khó khăn cho việc dạy và học ngoại ngữ tại trường. 2.3.2 Khó khăn khi giảng dạy và học tập Với vai trò là giáo viên trực tiếp giảng dạy học phần tiếng Anh A1, người viết đã nhận thấy rất rõ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và học tập. Sinh viên không hứng thú với đề tài được đề cập vì các em không có ý niệm gì về đối tượng được nói đến, do đó hiệu quả bài học thực sự bị ảnh hưởng. Các em cũng không tìm được sự kết nối, liên tưởng đến đối tượng bài học. Việc giảng dạy những nội dung không quen thuộc với học viên cũng khiến giáo viên trở nên bị động vì có thể không hình dung được sự thiếu hụt về kiến thức nền của sinh viên. Giáo viên cũng mất rất nhiều thời gian để giải thích, gợi ý và dẫn dắt trong quá trình giảng dạy, ảnh hưởng đến việc phân bố thời gian giảng dạy cho các phần. Việc tạo hứng thú cho học viên cũng trở nên khó khăn hơn rất nhiều 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN 3.1. Các phương pháp đề xuất thử nghiệm Trong quá trình giảng dạy, do nhận thức được vấn đề về lỗ hổng kiến thức nền của sinh viên, giáo viên đã có sự chuẩn bị và thống nhất với sinh viên các lớp ngay từ đầu kỳ học về các hoạt động cần làm. Bốn hoạt động chính đã được thống nhất giữa giáo viên và sinh viên gồm: 1. Tuyển tập bài đọc (portfolio) Sinh viên được lựa chọn các chủ đề bao gồm: diễn viên nổi tiếng, người mẫu nổi tiếng, các nhân vật kiệt xuất (lãnh đạo, chính trị gia), các bộ phim, các ca sỹ nổi tiếng, ban nhạc nổi tiếng, nhà văn và các tác phẩm, các địa điểm ưa thích. Các chủ đề này được lựa chọn dựa vào nội dung trong sách học cũng như theo đề xuất của sinh viên. Yêu cầu các bài phải nói về các chủ đề thuộc nước nói tiếng Anh, với độ dài khoảng 500 – 800 từ, sau đó sinh viên phải tóm tắt lại nội dung trong khoảng 200- 300 từ và đi kèm bảng từ mới (glossary). 2. Thuyết trình theo nhóm Hàng tuần sẽ có các nhóm cùng tìm về các bài với cùng một chủ đề lớn. Từng thành viên trong nhóm sau đó sẽ ngồi với các thành viên của nhóm khác để chia sẻ các thông tin về nhân vật hoặc địa danh của nhóm mình chuẩn bị. Một nhóm sẽ được gọi để trình bày bài chuẩn bị của mình. 3. Câu hỏi kiểm tra Cũng trong các tuần, nhóm trình bày sẽ thiết kế một bảng câu hỏi gồm khoảng 7-10 câu hỏi về nội dung trình bày để kiểm tra sự tiếp nhận của các nhóm còn lại, thường sẽ dưới hình thức thi xem nhóm nào trả lời được nhiều câu đúng nhất. 4. Chiếu phim Trong suốt 1 học kỳ dạy, sinh viên được xem 2 - 3 bộ phim theo sự lựa chọn của giáo viên và kiến nghị của sinh viên. Các phim được lựa chọn thường là những bộ phim có nội dung đơn giản (như Mama mia), hoặc là các bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học mà sinh viên đã nắm rõ (như Gone with the wind – Cuốn theo chiều gió, hay Pride and Prejudice – Kiêu hãnh và định kiến), hoặc các bộ phim về lịch sử (như Australia). Sinh viên sẽ được xem phim với phụ đề và có sự giải thích của giáo viên trong quá trình xem. 3.2. Kết quả thử nghiệm Sau quá trình thử nghiệm trong một học kỳ, tuy số lượng sinh viên khảo sát có 67 bị hao hụt, phản hồi của sinh viên phần lớn là khá tích cực. 80% thấy các hoạt động mang lại hứng thú và hiệu quả học tập, 14% cho rằng hiệu quả đạt được ở mức trung bình, và 6% không thấy các hoạt động này mang lại hiệu quả. Hoạt động được ưa thích nhất là hoạt động thu thập bài đọc vì sinh viên có cơ hội được mở mang vốn kiến thức văn hóa xã hội, và cũng được chuẩn bị từ vựng trước khi lên lớp. 84% đánh giá đây là hoạt động mang lại hiệu quả nhất, tuy nhiên cũng có một số bạn gặp khó khăn trong việc tìm bài đọc phù hợp với trình độ. Khó khăn lớn nhất của các bạn sinh viên khi tham gia các hoạt động này là vốn từ chưa đủ rộng để hiểu bài đọc, vì thế dẫn đến việc các bạn dành khá nhiều thời gian cho hoạt động này. Một số bạn thấy hoạt động thuyết trình là khá khó khăn vì các bạn chưa được học về các kỹ năng thuyết trình. Hoạt động trình chiếu phim, tuy mang lại nhiều hứng thú cho sinh viên, nhưng khá nhiều bạn cũng cho rằng phim hơi dài và ngôn ngữ sử dụng có phần khó so với trình độ của các bạn. Về gợi ý để làm cho các hoạt động này thiết thực hơn, một số bạn có ý kiến nên dạy sinh viên các kỹ năng mềm như kỹ năng tìm kiếm thông tin, phân loại thông tin, kỹ năng đọc phê phán, cũng như kỹ năng thuyết trình trước khi vào thực học năm thứ nhất. Đây là một gợi ý rất có ý nghĩa cho các nhà giáo dục để có thể thiết kế các khóa học ngắn ngày cho sinh viên về những kỹ năng mềm này. Ngoài ra còn có kiến nghị lựa chọn phim có nội dung ngắn và đơn giản hơn để sinh viên có thể kịp thời nắm bắt. Một gợi ý khác cũng gây ra nhiều suy nghĩ cho những người làm nghiên cứu là một nhận xét về sự không phù hợp của sách giáo khoa hiện tại với học sinh Việt Nam. Theo đó, sách sử dụng quá nhiều nội dung nước ngoài nên sinh viên không hiểu rõ được và kiến nghị nên chọn sách sử dụng hình ảnh của các ca sỹ, diễn viên, chính khách người Việt vì như thế sẽ tạo được nhiều hứng thú cho người học hơn. 3.3. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu, chúng ta có thể thấy được thực trạng của lỗ hổng trong kiến thức nền của sinh viên là có thật, và nó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả dạy và học của cả cô và trò. Các biện pháp tăng cường kiến thức cho sinh viên đã được đề xuất và thử nghiệm tuy nhiên cũng chỉ trong một phạm vi khá nhỏ nên chưa có tính chất khái quát cao. Mặc dù vậy, đây cũng là bước khởi đầu cho việc nâng cao kiến thức nền cho sinh viên trình độ A1 sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alfassi, M. (2004), Reading to learn: Effects of combined strategy instruction on high school students, The Journal of Educational Research 97(4), 171–184. 2. Brechtel, M. (2001), Bringing It All Together: Language and Literacy in the Multilingual Classroom, Dominie Press, Inc. 3. Cromley, J. G., & Azevedo, R. (2007), Testing and refining the direct and inferential media- tion model of reading comprehension, Journal of Educational Psychology, 99(2), 311- 325. 68 4. Echevarría, J., Vogt, M.E., & Short, D. (2013), Making content comprehensible for English learners: The SIOP® Model. (4th ed.), Boston, MA: Pearson Allyn and Bacon. 5. Espin, C. A., & Foegen, A. (1996), Validity of general outcome measures for predicting sec- ondary students’ performance on content-area tasks, Exceptional Children, 62, 497-514. 6. Farley, M. J., & Elmore, P. B. (1992), The relationship of reading comprehension to critical thinking skills, cognitive ability, and vocabulary in a sample of underachieving college freshmen, Educational and Psychological Measurement, 52, 921-931. 7. Fisher, D., & Frey, N. (2009). Background knowledge: The missing piece of the comprehension puzzle, Portsmouth, NH: Heinemann. 8. Fisher, D., N. Frey, and D. Lapp. (2009), In a Reading State of Mind: Brain Research, Teache
File đính kèm:
- kien_thuc_nen_cua_sinh_vien_tieng_anh_a1_tai_dh_khxh_va_nv_t.pdf