Hướng dẫn dịch văn bản khoa học xã hội
Liệu văn bản khoa học xã hội có đủ đặc trưng để đòi hỏi một cách tiếp
cận riêng về dịch thuật, mà về mặt này hay mặt kia sẽ khác với cáchtiếp
cận đã được áp dụng với văn bản khoa học tự nhiên (văn bản trong hoá
học, vật lý học, toán học, và những khoa học tương tự) và văn bản kỹ
thuật (như sách hướng dẫn sử dụng và những thứ tương tự), hoặc với các
tác phẩm văn học hay không? Chúng tôi tinlà có.
y cho một nền văn hoá khác. Một thuật ngữ như “dân chủ” (democracy), một từ có vẻ như sẵn có từ tương đương trong các ngôn ngữ khác nhau, có thể lại đòi hỏi có chú thích, hoặc thậm chí cần sự giới thiệu của dịch giả nếu nó ảnh hưởng đến cách độc giả hiểu một khái niệm trong suốt quá trình đọc tác phẩm hay bài báo. Khái niệm cùng tên khác nghĩa cũng có thể phát triển theo thời gian, bởi vì nội dung ngữ nghĩa có thể thay đổi trong khi hình thức – tức là bản thân tên thuật ngữ – lại không thay đổi. Đây chính là trường hợp đang hiện hành ở các nước cộng sản trước đây (cũng như những nước vẫn duy trì chế độ xã hội chủ nghĩa). do vậy, thuật ngữ tiếng Trung nongmin, trước đây thường được dịch sang tiếng Anh là “peasant(s)” (nghĩa là người làm ruộng) trong những văn bản cộng sản, ngày nay có thể được dịch là “farmer(s)” (nghĩa là người làm cả nghề trồng trọt và chăn nuôi, và có quyền thuê hay sở hữu đất) để phản ánh hoàn cảnh kinh tế mới. Đôi khi vấn đề còn phức tạp hơn. Khái niệm tiếng Trung “fengjian” trong các văn bản cộng sản, trước đây thường được dịch sang tiếng Anh là feudalism, nghĩa là chủ nghĩa phong kiến, sẽ có nghĩa gì trong các văn bản được soạn thảo hiện nay? Nó có giữ lại nghĩa của nó theo cách hiểu Marxist không? Khi nào thì một nhà khoa học xã hội Nga dùng từ ob”ektivno (nghĩa là “một cách khách quan”) theo nghĩa Marxist, và khi nào thì theo nghĩa thông dụng? Điều nguy hiểm ở đây là dịch giả có thể phiến diện và đưa ra một bình luận chứ không phải một định nghĩa. Những thay đổi về nội dung ngữ nghĩa của khái niệm cũng ra đời mà không cần có những thay đổi lớn trên thế giới. Một nhà triết học có ảnh hưởng có thể làm cho những thay đổi này ra đời. ví dụ, Hegel đã áp đặt một nghĩa triết học cho khái niệm Aufhebung, một từ ra đời từ động từ aufheben có nghĩa đen là “nâng lên” và nghĩa bóng là “hủy bỏ.” Để chuyển tải nghĩa của Hegel, một số dịch giả đã dùng thuật ngữ “sublation” (phủ nhận), một số người khác dùng thuật ngữ “supersession” (sự thay thế) hay “overcoming” (vượt qua); nhưng một số khác giữ lại thuật ngữ tiếng Đức. Trong bất cứ trường hợp nào, những thuật ngữ như vậy yêu cầu dịch giả cần phải có chú thích, hoặc nếu có nhiều thuật ngữ như vậy thì cần có một lời giới thiệu dễ hiểu. dịch giả nên đặc biệt chú ý đến những thuật ngữ như Aufhebung bởi vì chúng có thể trở thành những thuật ngữ chính trong ngành. Dài dòng. Trong phần lớn các ngôn ngữ, khoa học xã hội thường có xu hướng dài dòng. Một cách giải quyết vấn đề này là bỏ đi những từ có chức năng ngữ pháp: • để nhằm tạo thuận lợi cho việc thi hành (in order to facilitate implementation) > tạo thuận lợi cho việc thi hành (to facilitate implementation) • Những cải cách mà gần đây được bắt đầu (the reforms which have been recently introduced) > những cải cách được bắt đầu gần đây (the recently introduced reforms) Nếu văn bản đặc biệt lặp lại và không rõ ràng, người dịch nên chỉ ra vấn đề này cho cán bộ biên tập trước khi bắt tay vào dịch và hỏi cán bộ biên tập muốn bản dịch phản ánh đúng lỗi của bản gốc hay hạn chế nhược điểm này. (Xem thêm “Trao đổi giữa cán bộ biên tập và dịch giả.”) Những cạm bẫy trong việc dịch văn bản khoa học xã hội (tt) Thuật ngữ không nhất quán. Nhìn chung, nếu một thuật ngữ xuất hiện nhiều, thì lần nào cũng phải được dịch sang cùng một từ, nhưng người dịch cần phải xác định xem trên thực tế nghĩa của nó ở những chỗ khác nhau có giống nhau không. Nếu không, người dịch có thể chọn những từ khác nhưng quyết định này phải là quyết định có ý thức. Để đảm bảo tính nhất quán, cán bộ biên tập có thể đề nghị người dịch lập ra một bản chú giải những thuật ngữ riêng trong quá trình dịch. Ngôn ngữ gắn với một giai đoạn cụ thể. Để tránh sự lạc hậu về ngôn ngữ và văn hoá, người dịch phải dựa vào hiểu biết của mình về những khác biệt trong tư tưởng và cách sử dụng từ giữa thời điểm ra đời của bản gốc và thời điểm dịch tác phẩm. ví dụ, người dịch nên tránh áp đặt ngược dòng thời gian một ngôn ngữ chính trị đúng đắn (đúng đường lối) của thời điểm dịch cho một tác phẩm đã ra đời trong qua khứ. Giải quyết những khó khăn về thuật ngữ chuyên môn* Khi đưa ra những khái niệm mới, những nhà khoa học xã hội thường diễn đạt chúng bằng những từ hoặc cụm từ được tạo ra cho chính mục đích đó. (Từ capital culturel của Bourdieu và protestantische Ethik của Weber là những ví dụ điển hình.) Nếu được chấp nhận rộng rãi, những từ này sẽ trở thành thuật ngữ chuyên môn. Những khái niệm và thuật ngữ chuyển tải các khái niệm đó thường mang đặc thù về văn hoá cao. Tính đặc thù này có thể phụ thuộc cả vào giai đoạn thuật ngữ ra đời cũng như phụ thuộc vào đặc điểm của tộc người hay quốc gia. Hơn nữa, những thuật ngữ này dễ trở thành những khái niệm có cùng tên nhưng khác nghĩa.* Điều này có nghĩa là, thậm chí trong cùng một truyền thống chúng vẫn có thể có nghĩa khác nhau đối với những tác giả khác nhau. Sự thay đổi thường xuyên này của các khái niệm là một thách thức lớn. Sự xuất hiện phổ biến của các thuật ngữ chuyên môn là một trong những đặc điểm trước nhất của ngôn thuyết khoa học xã hội, nên người dịch phải đặc biệt chú ý không chỉ đến việc dịch, mà còn phải làm cho độc giả biết về sự tồn tại của những thuật ngữ này. Mặc dù không có giải pháp thần kỳ có thể giải quyết được mọi trường hợp, hiện nay có hai phương pháp đã được thử thách qua thời gian để giải quyết vấn đề này: 1) chấp nhận thuật ngữ như là từ vay mượn.* Điều này có nghĩa là lấy toàn bộ từ (ví dụ, sử dụng từ tiếng Nga cho những thuật ngữ của Liên bang Xô viết, ví dụ dùng từ politburo trong tiếng Anh lấy từ từ tiếng Nga politbiuro, viết tắt của từ politicheskoe biuro, nghĩa là bộ chính trị) và dùng từ gulag trong tiếng Anh (lấy từ từ tiếng Nga gulag, là từ viết tắt của gosudarstvennoe upravlenie lagerei, nghĩa là “cơ quan nhà nước quản lý các trại giam”); và 2) đưa ra một thuật ngữ đồng thời dùng dịch vay mượn* như trong tiếng Anh political instructor cho từ tiếng Nga politruk (nghĩa là chính trị viên). Cả hai cách tiếp cận đều tạo ra những từ và cách diễn đạt mà khi mới nghe sẽ thấy lạ tai, bởi vì trong trường hợp thứ nhất thì thuật ngữ xuất hiện bằng từ nước ngoài, trong trường hợp thứ hai thì vì những thuật ngữ này ép ngôn ngữ của bản dịch vào khuôn mẫu của ngôn ngữ bản gốc. Nhưng các ngôn ngữ từ xưa đến nay đã và đang chấp nhận và thuần hóa những từ vay mượn và những cách dịch vay mượn. Tiếng Anh đã được làm giàu thêm bởi những từ vay mượn từ tiếng Pháp sau cuộc xâm chiếm của người Norman và cho đến ngày nay nó vẫn tiếp tục nhập nội các từ của những ngôn ngữ khác. Nhân tiện lấy ví dụ về cách dịch vay mượn, liệu có bao nhiêu người nói tiếng Anh biết được rằng cụm từ kill time (giết thời gian) là một sự dịch vay mượn từ cụm từ tiếng Pháp tuer le temps chứ? Dù trong trường hợp nào, người dịch vẫn cần dùng chú thích khi họ đưa vào bản dịch một thuật ngữ mà họ mới tạo ra, hay khi họ muốn thay thế một thuật ngữ đã được chấp nhận bằng một thuật ngữ của chính họ. Họ không cần phải chú thích những từ đã có trong từ điển đơn ngữ cỡ trung của ngôn ngữ bản dịch (ví dụ, The Concise Oxford Dictionary và Webster’s College Dictionary). do đó, cả hai thuật ngữ politburo và gulag đều không cần chú thích, nhưng từ political instructor lại đòi hỏi chú thích. Có thể chú thích như sau: “Chúng tôi dùng thuật ngữ political instructor (chính trị viên) để dịch thuật ngữ politruk, một từ có nguồn gốc từ thuật ngữ politicheskii rukovoditel’. Từ này dùng để chỉ một cán bộ Đảng được giao nhiệm vụ hướng dẫn đường lối và hệ tư tưởng cho những người lính rong quân đội Xô viết.” Chú thích cho từ tiếng Pháp grandes écoles (phần lớn các dịch giả giữ nguyên từ tiếng Pháp này trong bản dịch, nghĩa là họ “dịch” từ này như một từ mượn chứ không dịch thành ‘the great school’ (trường lớn), mặc dù từ écoles – trường – được nhắc đến trong tên của tất cả các trường học) có thể như sau: “Grandes Écoles là những học viện hàng đầu của đào tạo đại học ở Pháp, bao gồm những trường như École Normale Supérieure, École Polytechnique, École Navale, v.v. . . .” Chú thích nên ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Những bình luận có tính chất giải thích và dài sẽ tìm thấy chỗ đứng thích hợp ở phần giới thiệu của dịch giả. Chú thích cũng có thể được dùng để xác định và giải thích các trường hợp chơi chữ, cách ngôn, những tham chiếu về văn học hay văn hoá nói chung, v.v. . . . Tuy nhiên, những chú thích chỉ nên giải thích những gì rõ ràng đối với bạn đọc của văn bản gốc nhưng lại không rõ ràng đối với bạn đọc của văn bản dịch. Hơn nữa, chú thích không phải là cách duy nhất làm sáng tỏ một thuật ngữ. ví dụ, người dịch có thể thêm vào một hai từ kín đáo mang tính giải thích. Nếu có thể tin rằng độc giả của văn bản được dịch từ một bản tiếng Pháp hiểu từ grandes écoles là những trường đào tạo đại học lớn tại Pháp nhưng không hiểu rằng những trường này có uy tín (prestige) hơn hẳn những trường khác, thì người dịch có thể kín đáo thêm một từ để giải thích vào thành prestigious grandes écoles. Đôi khi, có thể rút ngắn hoặc bỏ chú thích bằng cách chèn thuật ngữ trong văn bản gốc vào trong ngoặc đơn sau thuật ngữ được dịch ra trong văn bản dịch. Hãy quay lại cách dùng từ tương đương tiếng Anh political instructor và từ tiếng Nga politruk. Nếu ngữ cảnh của thuật ngữ gắn nó với lực lượng quân đội đã đủ rõ ràng, thì người dịch có thể cho từ nguyên gốc vào ngoặc đơn ngay sau từ được dịch – political instructor (politruk – chính trị viên), qua đó vừa chỉ ra rằng đây là một thuật ngữ, đồng thời phát tín hiệu về nguồn gốc phát sinh của thuật ngữ này cho những độc giả thông thạo với thuật ngữ ở dạng ban đầu. Tuy nhiên, phương pháp này không được khuyến khích dùng thường xuyên bởi vì nó có thể trở thành một cái nạng. Nó cũng có thể làm giảm tin tưởng vào khả năng của người dịch.
File đính kèm:
- huong_dan_dich_van_ban_khoa_hoc_xa_hoi_3521.pdf