Học nhanh 214 bộ thủ chữ Hán qua thơ
1. MỘC (木) – cây, THỦY (水) – nƣớc, KIM (金) – vàng
2. HỎA (火) – lửa, THỔ (土) – đất, NGUYỆT (月)- trăng, NHẬT (日) – trời
3. XUYÊN (川) – sông, SƠN (山) – núi, PHỤ (阜) – đồi (1)
4. TỬ (子) – con, PHỤ (父) – bố, NHÂN (人) – ngƣời, SỶ (士) – quan (2)
5. MIÊN (宀) – mái nhà, HÁN (厂) – sƣờn non (3)
ợ thuyền. 59. THỊ (示) bàn thờ cúng tổ tiên, 60. NGỌC (玉) là đá quý, BỐI (貝) tiền ngày xƣa. Giải thích : 1. Bộ Trỉ (夂) vẽ hình 1 cái bàn chân đang đi xuống. Vd : a) Giáng 降 gồm các tổ hợp nét : 阝(phụ : đồi cao), 夂 (trỉ : bàn chân), ヰcũng là hình vẽ của 1 bàn chân. Một quả đồi (阝, phụ) và 2 bàn chân đi từ trên đồi xuống thì có nghĩa là “Giáng” (đi xuống). (Hình vẽ 2 bàn chân bên phải đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi tự dạng, nên hơi khó nhận ra, bạn nào muốn coi diễn biến của hình vẽ này, xin tìm nguồn tƣ liệu “汉字演变五百例” của 李乐毅) . b) Phùng 逢 : Gồm bộ 辶 (Sƣớc), 夂 (Trỉ), 丰(Phong). Ban đầu viết nhƣ thế này 夆 (phong), Phùng nghĩa là gặp gỡ, muốn gặp đƣợc thì phải đi tới (bộ Trỉ, bàn chân) bên dƣới là chữ Phong chỉ âm đọc, Phong biến âm thành “Phung” rồi “Phùng”. Sau đó ngƣời ta thêm bộ Sƣớc vào cho rõ nghĩa hơn. (Sƣớc là đi xa, ngụ ý hành động). Bộ Tuy (夊) trông rất giống bộ Trỉ (夂), nên đôi khi ngƣời học dễ bị nhầm lẫn. Nhƣng bạn chỉ cần để ý 1 chút là sẽ phân biệt đƣợc. Vd : Chữ 麥 = 木+人+人+夊 . Chữ Mạch là cây lúa mạch, nên có chữ Mộc chỉ cây, hai chữ Nhân là vẽ 2 bông lúa nặng trĩu, bên dƣới vẽ rễ cây lúa mạch. 2. Chữ Tự (自) ban đầu chính là vẽ cái mũi. Sau đó ngƣời ta mƣợn chữ “Mũi” này để chỉ nghĩa Tự nhƣ “Tự mình”. Vì vậy cần phải tạo ra 1 chữ khác chỉ cái mũi, chính là chữ Tỳ. (âm đọc cổ của chữ Tự 自 và Tỳ 鼻 gần giống nhau) 鼻(Tỳ) = 自 (tự) + 畀(tý). Chữ Tỳ = mũi đƣợc tạo mới là 1 chữ Hình thanh (bộ Tự bên trên chỉ nghĩa, chữ Tý bên dƣới chỉ âm đọc) 畀Tý ghép bởi hai tổ hợp nét là 田(điền) và 廾(Củng). Tý nghĩa là đem cho. Bên trên vẽ bộ Điền 田, tƣợng trƣng 1 gói quà, ta có thể coi nhƣ 1 chiếc bánh chƣng cho dễ nhớ. Bên dƣới vẽ hai bàn tay (bộ Củng 廾vẽ hai bàn tay chắp lại nâng một vật). Ngụ ý, đem quà đi tặng. Bộ Nhĩ (耳) vẽ cái tai. Đã bị biến đổi tự dạng rất nhiều Bộ Thủ (首)vẽ đầu con thú, có 2 sừng phía trên, khá giống đầu 1 con vật có sừng. Chú ý phân biệt với bộ Hiệt (頁, câu 14) vẽ đầu ngƣời, không có 2 sừng bên trên. 3. Bộ Thanh (青) nghĩa là màu xanh, ghép từ hai tổ hợp nét 生 và 丹. Chữ Hán cổ viết bên trên là Sinh (Sanh) chỉ âm đọc (Ghi chú : âm đọc Hán cổ và âm Hán hiện đại khác nhau, có lẽ thời cổ đại, chữ Sinh và chữ Thanh có âm đọc tƣơng đối giống nhau). Bên dƣới là Đan chỉ màu đỏ, ngụ ý màu xanh luôn đi đôi với màu đỏ, nay viết thành chữ nguyệt 月. Bộ Thảo (艹) vẽ 2 ngọn cỏ, cổ văn (艸) và hiện nay (艹) đều dễ dàng nhận ra điều đó. Bộ Sắc (色) trong màu sắc, vẽ con Kỳ nhông đuôi dài, 2 nét trên cùng là cái đầu con kỳ nhông, phần ở giữa vẽ cái thân con kỳ nhông, nét cong dƣới cùng là cái đuôi con kỳ nhông. Vì con kỳ nhông thƣờng thay đổi màu nhanh chóng, nên ngƣời Trung Quốc lấy hình dạng con vật này để chỉ nghĩa màu sắc. 4. Bộ Trĩ (豸, hoặc Sãi, Trãi) vẽ hình 1 con thú đuôi dài, bên trên là cái đầu có mõm nhọn, răng dài. có thể phân ra thành : – Đầu con thú tƣợng hình bằng bộ nguyệt viết nghiêng – Lƣng và đuôi con thú là nét cong bao bên ngoài – 4 chân con thú tƣợng hình bằng 2 nét cong bên trong (vì đây là hình vẽ con thú nhìn nghiêng) Những loài thú dữ có xƣơng sống thƣờng dùng bộ Trĩ này để chỉ ý. Vd : 豹,豺,豼,貇,貅 Bộ Kệ (彑) vẽ cái đầu con heo, có mõm dài, rất khó nhận ra, nhƣng ta có thể thấy tàn dƣ của nó trong các chữ Hán đang dùng ngày nay : 彖 [tuàn], âm Hán Việt là thoán, vốn là 1 loài heo rừng, sau mƣợn dùng làm chữ Soán trong kinh dịch. 5. Bộ Thử (鼠) là con chuột, cổ văn vẽ hình 1 con chuột, sau đó diễn biến thành chữ nhƣ ngày nay. Nếu bạn lấy chữ Thử tiểu triện quay ngƣợc kim đồng hồ 90 độ, sẽ thấy khá giống 1 con chuột đang bò 鼠. hiện nay, muốn nhớ đƣợc chữ này, bạn có thể nhớ theo cách sau : Thử thuộc bộ Cữu (臼 cối xay gạo). Con chuột “xay” gạo cũng khá dữ dội, cho nên lấy bộ Cữu (臼) tƣợng trƣng cho cái đầu của nó. Phần bên dƣới vẽ 3 nét dài 4 nét ngắn. 3 nét dài tƣợng trƣng cho mình và đuôi con chuột, 4 nét ngắn tƣợng trƣng cho 4 chân. 6. Bộ Hƣơng (香) nghĩa là thơm, bên trên viết bộ Hòa (禾cây lúa), bên dƣới viết bộ Cam (甘 nghĩa là ngọt ngào, sau biến thành chữ Viết 曰). Gộp 2 ý lại thành mùi bông lúa chín ngọt ngào và thơm tho. 香 = 禾 + 甘 = 禾 + 曰 Bộ Mễ (米) vẽ hình 1 bông lúa, sau có nghĩa là gạo. Trông hình dạng chữ khá giống bông lúa. Những chữ Hán có chứa bộ Mễ (米) thƣờng chỉ về các loại hạt, hạt nhỏ, thậm chí nhỏ đến mức không nhìn thấy vd : 精, 氣 Bộ Triệt (屮) vẽ 1 ngọn cỏ, tƣợng trƣng cho loài rêu, bộ này ít dùng. Bộ Dụng (用) vẽ hình 1 quả chuông (không có núm). Ngƣời xƣa đặt nó trên bàn làm việc, khi cần “DÙNG” đến lính hầu, ngƣời ở thì dùng tay nắm lấy lắc cho kêu. do vậy mà ngƣời TQ vẽ cái chuông này để chỉ nghĩa Dùng, sử dụng. 7. Bộ Đấu (斗) vẽ hình 1 cái đấu đong gạo. Ngƣời TQ cổ đại đong bằng đấu. Ở miền bắc vẫn dùng đơn vị “đấu” để đong gạo cho đến tận nhƣng năm 80 của thế kỵ 20. 8. Bộ Can (干) là cái lá chắn, họăc là dụng cụ dùng để dựng giáo mác thời xƣa. Nay đã biến đổi dạng chữ, khó nhận ra, tuy nhiên nó cũng rất đơn giản, chỉ có 3 nét, nên cũng khá dễ nhớ. Bộ Công (工) vẽ hình cái thƣớc thợ (giống nhƣ thƣớc kẹp thợ sắt ngày nay) 1 dụng cụ để lấy góc vuông của ngƣời thợ Trung quốc cổ đại. Nếu bạn nào có chuyên môn về xây dựng sẽ dễ dàng hình dung ra hơn. 9. Bộ Thị (示) vẽ hình 1 cái bàn thờ thời tiền sử (họ dùng 1 mặt đá làm mặt bàn, chụm 3 khúc gỗ làm chân), nên bộ Thị hiện nay viết : Nét trên cùng là thức ăn cúng tế, nét ngang thứ 2 là mặt bàn thờ, 3 nét có chiều thẳng là vẽ chân bàn. bộ Thị hiện có 2 cách viết đƣợc chấp nhận : 示, 礻 nhƣ : 福,社,祭,。。。 10. Bộ Ngọc (玉) vẽ 1 chuỗi ngọc, cổ văn viết chữ Ngọc玉 và chữ Vƣơng 王 giống nhau, sau này ngƣời ta mới thêm 1 chấm nhỏ vào bộ Ngọc để phân biệt với chữ Vƣơng. Rất nhiều ngƣời học chữ Hán thƣờng nhầm là bộ “Vƣơng”. Thực ra, không hề có bộ Vƣơng, chỉ có bộ Ngọc, bộ ngọc khi nằm trong các chữ Hán phức tạp, có hình dạng của chữ Vƣơng. Vd : 珍珠, 琥珀, 玻璃, Bộ Bối (貝) vẽ hình cái vỏ sò, hai nét dƣới cùng là hai cái khớp trên vỏ con sò biển. Ngƣời Trung quốc cổ đại trao đổi hàng hóa bằng vỏ sò, họ dùng vỏ sò thay thế tiền. Do vậy, Bối có nghĩa mở rộng là tiền bạc, đồ quý hiếm, của báu. Vd trong tiếng việt : Bảo bối, Qua 1 thời gian dài biến hình, bộ Bối khó nhận ra đƣợc hình dạng vỏ sò, nhƣng nó thƣờng nằm trong các chữ chỉ về tiền bạc, 貴賤 quý tiện, 買賣 mua bán, 賠償bồi thƣờng v.v Câu 61 – 70 gồm 19 bộ : 豆 鬯 – 酉 衣 – 巾 又 – 止 乙 – 虫 隹 – 羽 冂 囗 – 凵 支 – 采 几 – 聿 – 辛 Đọc là: 61. ĐẬU (豆) là bát đựng đồ thờ, 62. SƢỞNG (鬯) chung rƣợu nghệ, DẬU (酉) vò rƣợu tăm. 63. Y (衣) là áo, CÂN (巾) là khăn, 64. HỰU (又) bàn tay phải, CHỈ (止) chân tạm dừng. 65. ẤT (乙) chim én, TRÙNG (虫) côn trùng, 66. CHUY(隹) chim đuôi ngắn, VŨ (羽) lông chim trời. 67. QUYNH (冂) vây 3 phía bên ngoài, 68. VI (囗) vây bốn phía, KHẢM (凵) thời hố sâu. 69. PHỐC (攴) đánh nhẹ, THÁI (采) hái rau, 70. KỴ (几) bàn, DUẬT (聿) bút, TÂN (辛) dao hành hình. Giải thích : 61, 62: vẫn tiếp tục nói đến bàn thờ, và các thứ đặt trên bàn thờ : Đậu (豆) là bát đựng đồ thờ, Sƣởng (鬯) là rƣợu cúng, dậu (酉) là vò rƣợu, y (衣) là áo (giấy), cân (巾) là khăn (giấy), đều là cá thứ dùng để cúng tế. 63, 64: nói về y áo, khăn, thì liên tƣởng đến tay chân. Nên câu 64 trình bày hai bộ Hựu (又) là bàn tay, và Chỉ (止) là bàn chân (theo nghĩa gốc xƣa), nay 2 chữ hựu và chỉ đã dùng với nghĩa khác. 65, 66: nói về chim và thức ăn của chim. Ất (乙) là chim én, trùng (虫) là thức ăn của chim, chuy (隹) là loài chim đuôi ngắn, vũ (羽) là lông của các loài chim. 67, 68: đều nói đến các bộ thủ bao vây : Quynh (冂), vi (囗), khảm (凵). Hình dáng chữ viết lại rất giống nhau, cần phân biệt cẩn thận. 69: liệt kê 2 bộ thủ mang ý nghĩa hành động bằng tay, phốc (攴), thái ( 采). 70: nói về luật pháp, hình phạt : kỵ (几) là bàn và duật (聿) là bút, dùng để ghi chép khẩu cung, nếu có tội thì tân (辛), con dao để thích chữ lên mặt phạm nhân. Câu 71- 82 gồm 25 bộ : 文 艮 鬼 – 音 鼓 – 龠 氏 卜 – 疒 彡 – 爻 襾 – 冖 -疋 – 亠 丨 – 丿 – 亅 – 丶 匸 – 匚 – 冫 – 卩 无 – 一 71. VĂN (文) là chữ viết, văn minh, 72 .CẤN (艮) là quẻ Cấn, giống hình bát cơm. 73. Ma là QUỴ (鬼), tiếng là ÂM (音), 74. CỔ (鼓) là đánh trống, DƢỢC (龠) cầm sáo chơi. 75. THỊ (氏) là họ của con ngƣời, 76. BỐC (卜) là xem bói, NẠCH (疒) thời ốm đau. 77. Bóng là SAM (彡), vạch là HÀO (爻) 78. Á (襾) che, MỊCH (冖) phủ, SƠ (疋) ĐẦU (亠) nghĩa nan. 79. SỔ (丨) PHẾT (丿) MÓC (亅) CHỦ (丶) nét đơn, 80. HỄ (匸) PHƢƠNG (匚) BĂNG (冫) TIẾT (卩), thì dồn nét đôi. 81. VÔ (无) là không, NHẤT (一) mộ thôi, 82. Diễn ca bộ thủ muôn đời không quên. Giải thích : 71. Câu 70 nói về duật (聿) là bút, nên câu tiếp theo 71 này nói về văn, chữ viết. 72. nói về quẻ cấn (艮), một quẻ torng kinh Dịch. Kinh Dịch là bộ sách liên quan đến nhiều lĩnh vực, thƣờng dùng trong bói toán. 73, 74. Nhắc đến bói toán thì nghĩ ngay đến mê tín, nói đến mê tín thì nói đến ma quỵ. Ngƣời Trung Quốc xƣa cũng dùng âm nhạc để xua đuổi ma quỵ. Nên 2 câu 73, 74 nói về bộ Quỵ (鬼), âm (音) là tiếng, là âm nhạc, nói đến cổ (鼓) là đánh trống, và dƣợc (龠) là cây sáo. 75. Cũng trong bói toán, thầy thƣờng hỏi họ tên, nên tiếp theo là bộ thị ( 氏) tức họ tên của ngƣời. 76. Khi bệnh thì ngƣời ta cũng hay xem bói, nên thầy bói cũng kiêm cả thầy thuốc trị bệnh. Câu 76 trình bày hai bộ bốc (卜) là xem bói, và nạch (疒) là ốm đau. 77. Trong bói toán, sau quẻ là hào (爻), dịch có 64 quẻ, một quẻ có 6 hào. Còn quẻ không rõ thì mơ hồ, chỉ thấy bóng dáng, nên câu 77 này giới thiệu bộ sam (彡) là bóng, là ảnh, rung động. 78. giới thiệu hai bộ cùng nghĩa : Á (襾) là che đậy, mịch (冖) là che phủ. Còn bộ sơ (疋) ý nghĩa mơ hồ, khó nói rõ, thƣờng dùng làm chân của 1 chữ Hoa, và bộ đầu (亠) cũng vậy, nhƣng thƣờng ở phần đầu của chữ viết. 79. liệt kê 4 bộ thủ 1 nét : Sổ (丨), phết (丿), móc (亅), chủ (丶), nghĩa không rõ ràng. 80. liệt kê 4 bộ thủ 2 nét : Hễ (匸), Phƣơng (匚), Băng (冫), Tiết (卩). 81. liệt kê 2 bộ thủ cuối cùng là : Vô (无) là không, Nhất (一) là một
File đính kèm:
- 214_bo_thu_4473.pdf