Effects of vstep on students’ learning motivation at Vietnam national uinversity, Hanoi
Assessment plays an important role in teaching and learning process. The use of the
Vietnamese Standardized Test of English Proficiency (VSTEP) to assess the English learning
outcome of all VNU students has created challenges for learners, lectures and managers. This
survey study is carried out to examine the effects of VSTEP on 751 students of VNU. The findings
show that VSTEP has significant impact on students’ learning motivation; however, students doubt
that the current English programs could help them achieve their learning target. Besides, a number
of students perceive the difficulty level of the test based on rumor and do not pay much care about
the content and format of the test. This study also proposes recommendations to increase the
positive effects of the test to enhance the effectiveness of the teaching and learning process.
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 102 Original Article Effects of VSTEP on Students’ Learning Motivation at Vietnam National Uinversity, Hanoi Nguyen Thuy Lan1, Nguyen Thuy Nga2,* 1VNU University of Languages and International Studies, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 17 September 2019 Revised 14 October 2019; Accepted 16 October 2019 Abstract: Assessment plays an important role in teaching and learning process. The use of the Vietnamese Standardized Test of English Proficiency (VSTEP) to assess the English learning outcome of all VNU students has created challenges for learners, lectures and managers. This survey study is carried out to examine the effects of VSTEP on 751 students of VNU. The findings show that VSTEP has significant impact on students’ learning motivation; however, students doubt that the current English programs could help them achieve their learning target. Besides, a number of students perceive the difficulty level of the test based on rumor and do not pay much care about the content and format of the test. This study also proposes recommendations to increase the positive effects of the test to enhance the effectiveness of the teaching and learning process. Keywords: Effect, motivation, VSTEP, confidence, program, English. * _______ * Corresponding author. E-mail address: thuynga@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4294 VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 103 Tác động của bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) tới động cơ học của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Thúy Lan1, Nguyễn Thúy Nga2,* 1Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 17 tháng 9 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 14 tháng 10 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 10 năm 2019 Tóm tắt: Kiểm tra đánh giá từ lâu đã là một khâu quan trọng trong quá trình dạy và học, việc áp dụng bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) nhằm xác định chuẩn đầu ra về trình độ ngoại ngữ cho sinh viên toàn Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo ra những áp lực mới, thử thách mới đối với cả người học, người dạy và các nhà quản lý. Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát 751 sinh viên thông qua hình thức bảng hỏi nhằm tìm ra tác động của bài thi đối với động cơ học tiếng Anh của sinh viên trong hệ thống Đại học Quốc gia Hà Nội. Các kết quả cho thấy bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) có tác động lớn đến động cơ học của sinh viên tuy nhiên họ chưa thực sự tin tưởng chương trình tiếng Anh cơ sở có thể giúp đạt được yêu cầu về chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, đa số sinh viên cảm nhận về độ khó của bài thi thông qua các lời đồn đại và cũng chưa thực sự quan tâm đến hình thức và các nội dung của đề thi. Từ các kết quả nghiên cứu có thể gợi mở các đề xuất nhằm phát huy các ảnh hưởng tích cực, giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực, nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh, hướng tới mục tiêu cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Từ khóa: Tác động, động cơ, bài thi VSTEP, tự tin, chương trình, tiếng Anh. 1. Đặt vấn đề * Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một phần quan trọng, không thể thiếu, hợp thành một chỉnh thể thống nhất của quá trình dạy học ngoại ngữ [1]. Từ lâu, kiểm tra đánh giá kết quả học tập và quá trình dạy học đã có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ. Kiểm tra đánh giá khi ở _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: thuynga@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4294 khâu cuối của quá trình đào tạo sẽ đưa ra thông tin về mức độ hoàn thành mục tiêu đào tạo của người học; tuy nhiên, nó còn có tác dụng điều tiết trở lại hết sức mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo. Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, việc đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quốc gia. Ngày 30/9/2008, Chính phủ kí quyết định 1400 phê duyệt Đề án dạy và học ngoại N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 104 ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 (gọi tắt là Đề án 2020) với mục tiêu đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Quy chế đào tạo đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội ban hành kèm theo quyết định số 5115/QĐ- ĐHQGHN ngày 25/12/2014 nêu rõ: Chuẩn đầu ra về trình độ ngoại ngữ quy định là bậc 3 đối với các chương trình đào tạo chuẩn, ngành chính-ngành phụ, ngành kép, bậc 4 đối với chương trình đào tạo chất lượng cao, tài năng, liên kết quốc tế, bậc 5 đối với chương trình đào tạo chuẩn quốc tế. Sau khi được ban hành, bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) chính thức trở thành bài thi tiếng Anh nhằm xác định chuẩn đầu ra ngoại ngữ cho tất cả sinh viên các trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Việc áp dụng bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) nhằm xác định chuẩn đầu ra về trình độ ngoại ngữ cho sinh viên toàn Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo ra những áp lực mới, những thử thách mới đối với cả người học, người dạy và các nhà quản lý. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào được tiến hành nhằm xác định mức độ tác động của bài thi đối với quá trình dạy và học tiếng Anh trong hệ thống Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát sinh viên thông qua hình thức bảng hỏi nhằm tìm ra tác động của bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) đối với động cơ học tiếng Anh của sinh viên trong hệ thống Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Cơ sở lí luận 2.1. Bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) Bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) là từ viết tắt của Vietnamese Standardise Test of English Proficiency, đây là kì thi đánh giá năng lực tiếng Anh theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (tương đương với trình độ A1, A2, B1, B2, C1, C2) và được đưa vào sử dụng từ năm 2015. Bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) hướng tới đối tượng thí sinh từ 18 tuổi trở lên, tuy nhiên bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) được sử dụng chính để kiểm tra năng lực ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp đại học không phải chuyên ngành tiếng Anh với yêu cầu đạt mức B1 [2]. Bài kiểm tra được phát triển với ba mục đích chính: (1) xây dựng và thực hiện kiểm tra trình độ tiếng Anh cho người học Việt Nam; (2) đánh giá trình độ của người học tiếng Anh theo khung CEFR-VN tiêu chuẩn (phiên bản CEFR thích ứng để sử dụng trong bối cảnh Việt Nam); (3) xây dựng và chứng minh năng lực khảo thí của Việt Nam. Bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) kiểm tra bốn kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết trong đó bài kiểm tra nói được định dạng theo hình thức phỏng vấn trực diện với một giám khảo. Kết quả thi của bốn kĩ năng này sẽ được chuyển đổi về cấp độ tương đương của CEFR-VN với các mốc như: 3- tương đương trình độ B1, 4-tương đương trình độ B2 và 5-tương đương C1 [3]. 2.2. Lý thuyết động cơ (Motivation theory) Theo Nichols, lý thuyết về động cơ thường được các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách dùng để hỗ trợ chính sách sử dụng những bài thi chuẩn hóa mang tính quyết định như một công cụ để tăng tính giải trình về đội ngũ giáo viên và chương trình. Những người ủng hộ bài thi thường cho rằng việc áp dụng bài thi sẽ làm tăng hiệu quả giảng dạy và học tập bằng cách đưa ra những động cơ quan trọng, ảnh hưởng đến tương lai của người học vào trong quá trình học tập và giảng dạy [4]. Theo Gardner và Lambert, có hai loại động cơ cho việc học ngôn ngữ thứ hai: động cơ thâm nhập (integrative motivation) và động cơ thực dụng (instrumental motivation) [5]. Động cơ thâm nhập giúp sinh viên học ngôn ngữ thứ hai bằng cách làm tăng hứng thú tiếp nhận ngôn ngữ mới nói chung hoặc tăng mong muốn được giao tiếp với người bản xứ. Sinh viên có động cơ học do những nguyên nhân văn N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 105 hóa và xã hội cũng như do mong muốn được hòa nhập vào nền văn hóa và tham gia vào các trao đổi xã hội với những thành viên của nền văn hóa đó, sinh viên có những động cơ này thường thể hiện mong muốn cao độ được học ngôn ngữ của một cộng đồng để giao tiếp với cộng đồng họ hướng tới. Thậm chí Csizer và Dornyei còn cho rằng động cơ thâm nhập là yếu tố quan trọng nhất trong việc học ngôn ngữ thứ hai vì nghiên cứu đã chỉ ra rằng người học có động cơ thâm nhập học chăm hơn và nhanh hơn những ai không có động cơ thâm nhập [6]. Các nghiên cứu cho thấy động cơ thâm nhập giúp người học ngôn ngữ thứ hai có được động cơ tự thân từ bên trong, cổ vũ ý thức tự giác và sự tò mò. Tạo ra được động cơ từ bên trong có rất nhiều lợi ích, trong đó nổi trội nhất là việc người học chủ động trong việc học và tìm kiếm cơ hội học tập mà không chờ đợi phần thưởng hay chịu sức ép kỷ luật nào, nhờ thế họ có thể ghi nhớ thông tin lâu hơn là những người có động cơ bên ngoài. Người có động cơ bên trong sẽ cảm nhận được niềm vui học tập và có xu hướng trở thành những người học tập suốt đời, họ sẽ kiên trì hơn cho đến khi hoàn thành mục tiêu học tập đề ra. Để phân biệt với động cơ thâm nhập, Gardner và Lambert đã chỉ ra người học có động cơ thực dụng là khi họ học ngôn ngữ thứ hai để phục vụ một mục đích thực tế nào đó như phục vụ mục đích giáo dục hay công việc [5]. Mặc dù phần lớn nghiên cứu đều chỉ ra rằng động cơ thâm nhập có độ tương quan cao hơn với thành tích học tập so với động cơ thực dụng, Dornyei lại cho rằng động động cơ thực dụng có thể quan trọng hơn động cơ thâm nhập đối với người học ngoại ngữ do người học ngoại ngữ chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm để tham gia vào những trao đổi văn hóa, xã hội của cộng đồng người bản ngữ ở những giai đoạn đầu của quá trình học vì vậy động cơ thâm nhập có thể không đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình học ngoại ngữ [7]. Tầm quan trọng của những loại động cơ khác nhau có thể khác giữa người học ngôn ngữ thứ hai và người học ngoại ngữ. Trong nghiên cứu của mình, Brown chỉ ra rằng không nhất thiết tách rời động cơ thực dụng và động cơ thâm nhập. Người học hiếm khi chỉ chọn một trong hai loại động cơ khi học một ngôn ngữ thứ hai, do đó động cơ học ngôn ngữ thứ hai thường là sự kết hợp nhiều loại động cơ khác nhau [8]. Ví dụ được ông đưa ra là trường hợp những sinh viên quốc tế đang sinh sống tại Mỹ; những sinh viên này học tiếng Anh vừa để phục vụ những mục đích học thuật và vừa để hòa nhập với người dân và văn hóa nơi đây. Ví dụ này là minh chứng rõ ràng về sự tồn tại song song của động cơ thâm nhập và động cơ thực dụng. Trong một số trường hợp, rất khó để phân tách hai loại động cơ này một cách rõ ràng. 2.2.1. Lý thuyết Tạo động cơ bằng nỗi sợ hãi (Fear Appeal Theory) Khái niệm “sức lôi cuốn” (appeal) bắt nguồn được sử dụng nhiều trong lĩnh vực quảng cáo. Mục đích của nó là hướng khán giả đến mục tiêu mà nhà quảng cáo đặt ra. Tạo động cơ (hay sức lôi cuốn) từ nỗi sợ hãi (fear appeal) thường được sử dụng trong nhiều loại thông tin thị trường, ví dụ: tiếp thị sản phẩm, dịch vụ, v.v với thông điệp cơ bản là nếu bạn không thực hiện điều này (mua, bỏ phiếu, tin tưởng, hỗ trợ, học hỏi, v.v) thì bạn sẽ phải chịu một số hậu quả rất đáng tiếc [9]. Theo Johnston và Warkentin, lý thuyết Tạo động cơ bằng nỗi sợ hãi bao gồm ba khái niệm chính: sự sợ hãi (fear), sự đe dọa (threat) và hiệu quả tự nhận thức (perceived efficacy) [10]. Sự sợ hãi được định nghĩa là một cảm xúc tiêu cực. Sự đe dọa là một kích thích bên ngoài đối với người nhận sự đe dọa đó một thông điệp rằng họ đang có nguy cơ gặp phải một số tình huống hoặc kết quả tiêu cực. Và hiệu quả tự nhận thức là niềm tin của một người rằng nếu họ thực hiện theo các khuyến nghị của người đưa ra thông tin về sự đe dọa thì có thể sẽ làm giảm hiệu quả mối đe dọa đó [11]. Eckart cũng đưa ra lời khuyên rằng để việc tạo động cơ bằng nỗi sợ hãi phát huy hiệu quả cao nhất, cần đảm bảo: (i) truyền tải được thông điệp về một sự đe dọa hoặc một vấn đề nghiêm trọng, (ii) nêu được những hành động cụ thể có thể thực hiện để làm giảm mức độ nghiêm trọng của vấn đề được nêu ra [12]. Trong nghiên cứu về vai trò của hoạt động tạo động cơ bằng nỗi sợ hãi trong môi trường lớp học trước mỗi kỳ thi của N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 106 Putwain & Roberts, các tác giả đề cập đến việc giáo viên nhắc nhở học sinh nhiều lần về tầm quan trọng của kỳ thi, thời điểm diễn ra kỳ thi và hậu quả nếu thi trượt. Kết quả các nghiên cứu tương tự cho thấy việc gây áp lực trước mỗi kỳ thi nhấn mạnh vào giá trị của kết quả kỳ thi hơn là nhấn mạnh vào những kiến thức, kỹ năng mà học sinh thu được, việc này dễ dẫn đến cảm giác lo lắng quá mức của học sinh [13]. 2.2.2. Ảnh hưởng của bài thi tới hoạt động học Bên cạnh những nghiên cứu về tác động của bài thi với quá trình dạy, có một số nghiên cứu đề cập đến tác động của bài thi tới quá trình học. Trong suốt thời gian dài từ những năm 1990, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hiện tượng “ảnh hưởng của bài thi” là một hiện tượng phức tạp [14]. Có nhiều nghiên cứu tập trung vào khía cạnh xã hội của hiện tượng này nhằm đánh giá những ảnh hưởng của việc áp dụng bài thi đến việc điều chỉnh chính sách giáo dục, nhưng mục tiêu của nghiên cứu hiện thời là tập trung làm rõ ảnh hưởng của bài thi mang tính quyết định lên các hoạt động dạy-học thực tế diễn ra trong bối cảnh lớp học mà không đề cập đến những ảnh hưởng ở tầm vĩ mô (hệ quả xã hội), nên nghiên cứu sẽ chỉ tính đến hai đối tượng tham gia chính trong trong quá trình này là “người dạy” và “người học”. Gosa nghiên cứu ảnh hưởng của bài thi tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp cấp 2 ở Rumani. Đây là một nghiên cứu định tính; 10 học sinh tham gia nghiên cứu được yêu cầu ghi nhật ký. Dựa trên việc phân tích nhật ký, Gosa tìm ra rằng mặc dù học sinh mong muốn giáo viên dạy theo định hướng bài thi nhưng họ được luyện tập rất ít trong lớp để chuẩn bị cho kỳ thi. Bài thi cũng ảnh hưởng lớn tới lựa chọn bài tập và luyện tập kỹ năng của học sinh. Mỗi học sinh cũng chịu ảnh hưởng khác nhau từ bài thi [15]. Gosa thừa nhận một số điểm yếu trong nghiên cứu của mình như: chỉ sử dụng nhật ký không đủ đưa ra câu trả lời đầy đủ, nhật ký không phải là công cụ thu thập tài liệu tốt nhất để đánh giá các tác động của bài thi đối với người học. Ở các khung lý thuyết trước đây, một điểm hạn chế là các khung chỉ ra ảnh hưởng trực tiếp của bài thi tới những người tham gia mà không đề cập đến vai trò của niềm tin, thái độ, kiến thức sẵn có về bài thi và ngôn ngữ đang học (beliefs, attitudes, knowledge) của những người tham gia. Nói cách khác, các mô hình đó chưa giải thích được tại sao những người tham gia lại có những hành động cụ thể như nhà nghiên cứu quan sát thấy. Vì vậy, trong khung lý thuyết của nghiên cứu hiện thời, tác giả sẽ đề cập đến các yếu tố mang tính cá nhân của người tham gia (như niềm tin, thái độ, động cơ, kiến thức) như là một trong các yếu tố trung gian góp phần tạo nên ảnh hưởng của bài thi. 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Một bảng hỏi dành cho sinh viên gồm 55 câu hỏi đã được phát đến từng lớp học ở các trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trước khi phát khảo sát, mục đích nghiên cứu và các thuật ngữ được nhóm nghiên cứu giải thích cặn kẽ cho sinh viên. Sinh viên tham gia nghiên cứu phải là sinh viên không theo học chuyên ngành tiếng Anh, thuộc các chương trình đào tạo của các trường/khoa thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra các trường/khoa thành viên được lựa chọn phải áp dụng học phần Tiếng Anh cơ sở 1, 2 và 3 do trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn và sử dụng. Trong tổng số 950 phiếu phát ra thu được 751 phiếu, cho ra kết quả phản hồi (return rate) là 79.05%. Các phương pháp phân tích được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: (i) Thống kê mô tả để có đánh giá tổng quát về quan điểm của sinh viên về động cơ học tiếng Anh của mình, sự tự tin vào khả năng thi đỗ của bản thân, sự tin tưởng vào mức độ hiệu quả của chương trình học phần Tiếng Anh cơ N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 107 sở, niềm tin của sinh viên vào cách học và kiểm tra đánh giá tiếng Anh hiệu quả. Ngoài ra, các số liệu thống kê mô tả còn cho biết những thông tin về mức độ hiểu biết, quen thuộc của sinh viên với bài thi chuẩn đầu ra quan trọng này, áp lực mà họ nhận được từ những lời “đồn thổi” về độ khó và tầm quan trọng của bài thi thông qua sinh viên khóa trên và giảng viên. Kiểm định hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xây dựng và kiểm định các thang đo. Các phân tích này được tiến hành dưới sự trợ giúp của phần mềm SPSS 20.0. (ii) Ngoài ra nghiên cứu còn sử dụng phần mềm AMOS 7.0 để kiểm định độ tin cậy, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ và tính đơn nguyên của các khái niệm và thang đo, kiểm định các giả thuyết và độ phù hợp của mô hình trong nghiên cứu bằng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và phân tích mô hình cấu trúc (SEM). 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Động cơ học tiếng Anh Động cơ học tiếng Anh được phân chia làm 2 nhóm: Động cơ thực dụng và Động cơ thâm nhập. Nhận định 1 đến 4 được mã hóa DL1_1 đến DL4_1 nhằm tìm hiểu về động cơ học tiếng Anh của sinh viên nhằm phục vụ các mục đích thực tế như xin học bổng, tìm việc làm, v.v. Nhận định 5 đến 8 được mã hóa DL5_1 đến DL8_1 nhằm tìm hiểu về động cơ học tiếng Anh xuất phát từ niềm ham mê văn hóa các nước nói tiếng Anh của sinh viên. Kết quả ở bảng dưới cho thấy sinh viên có động cơ học tiếng Anh tương đối cao khi trung bình chung của cả hai loại động cơ đều ở mức xấp xỉ 4.3 (Đồng ý) trên mức điểm cao nhất là 6 (Hoàn toàn đồng ý), cả hai loại động cơ có giá trị trung bình tương đương nhau (4.33 và 4.36). Bảng 1. Động cơ học tiếng Anh của sinh viên Động cơ thực dụng Động cơ thâm nhập Số lượng 751 751 Trung bình 4.3332 4.3692 Độ lệch chuẩn .88559 1.02412 5d Khi nhìn kỹ vào từng nhận định của từng loại động cơ, ta thấy nhóm Động cơ thực dụng, hầu hết các nhận định đều được đánh giá ở mức 4.4-4.7 (Mức 4: Đồng ý). Nhận định được ít điểm nhất là nhận định DL3_1 (Tôi học tiếng Anh để có thể đi du học sau khi tốt nghiệp Đại học) với mức điểm 3.5 (Mức 3: Phân vân). Trong nhóm này có nhận định DL1_1 liên quan trực tiếp đến bài thi xét chuẩn đầu ra (Tôi học tiếng Anh để qua được bài thi chuẩn đầu ra). Đa số sinh viên được hỏi đều đồng ý với nhận định này khi lựa chọn mức 4 (Đồng ý), 5 (Rất đồng ý) hoặc 6 (Hoàn toàn đồng ý) với tỉ lệ áp đảo là 86.8%. Điều này chứng tỏ bài thi là một “nỗi ám ảnh” lớn và là động cơ chủ yếu để sinh viên theo học các học phần tiếng Anh cơ sở. Trong nhóm Động cơ thâm nhập, nhận định ít được tán thành nhất là nhận định DL5_1 (Tôi học tiếng Anh vì tôi
File đính kèm:
- effects_of_vstep_on_students_learning_motivation_at_vietnam.pdf