Động từ, Thành ngữ trong lĩnh vực nghiên cứu Anh ngữ và Việt ngữ

Tóm tắt: Động từthành ngữ(ĐTTN) là một đơn vịcú pháp-ngữnghĩa rất phổbiến

những lại vô cùng phức tạp và khó dùng trong tiếng Anh. Do đó mục đích của bài báo này là

tóm tắt các quan điểm cơbản về ĐTTN trong lĩnh vực nghiên cứu Anh ngữvà Việt ngữ, nhằm

tiến tới xây dựng cơsởlý luận về ĐTTN tiếng Anh trong sựso sánh với tiếng Việt giúp cho

người Việt trong việc học và sửdụng tiếng Anh.

Summary:The phrasal verb is a very popular but extremely complex and difficult-to-use

semantic – syntantic unit in English. Thus, the aim of this article is to summarize the most

essential viewpoints on phrasal verbs in English and Vietnamese linguistics in order to build

up theoretical background on English phrasal verbs in comparison with that of Vietnamese so

as to support the Vietnamese in studying and using English.

pdf6 trang | Chia sẻ: jinkenedona | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Động từ, Thành ngữ trong lĩnh vực nghiên cứu Anh ngữ và Việt ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đề các tác giả quan tâm khi nghiên 
cứu động từ chủ yếu tập trung quanh sự nhận 
diện, phân loại theo trường ngữ nghĩa, chức 
năng cú pháp, phân loại động từ với tính từ, 
khả năng kết hợp với các loại từ khác… 
Trong số các tác giả có nhiều đóng góp 
vào việc nghiên cứu động từ tiếng Việt phải 
kể đến Nguyễn Kim Thản với Động từ trong 
tiếng Việt (1997), Đinh Văn Đức với Ngữ 
pháp tiếng Việt – Từ loại (2001), Diệp Quang 
Ban với Ngữ pháp tiếng Việt (2005), Nguyễn 
Thị Quy với Vị từ hành động tiếng Việt và các 
tham tố của nó (1995)… 
Trong khi nghiên cứu đặc tính của động 
từ trong tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, âm 
tiết tính, các tác giả đã chú ý tới việc kết hợp 
của động từ với phó từ. Theo Nguyễn Kim 
Thản “có thể căn cứ vào sự phân phối của 
những hư từ bên cạnh động từ mà tiến hành 
việc phân định những loại nhỏ” [26:98] Ông 
coi ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, tới, 
đến là một nhóm động từ đặc biệt chỉ sự vận 
động có phương hướng xác định, mà “tự thân 
nó đã bao hàm ý nghĩa về phương hướng rồi”. 
Tuy nhiên, ông cũng khẳng định khả năng 
chuyển hóa của nhóm động từ này thành các 
hư từ. Khi động từ kết hợp với nhóm hư từ 
này, chúng biểu thị “những quá trình có thể 
lặp đi lặp lại được, và có thể tiến hành theo 
những phương hướng nhất định” [26:110], do 
đó các hư từ ra, vào, lên, xuống, đi, lại có tác 
dụng nổi bật trong việc phân nhỏ nhóm động 
từ tiếng Việt. Trên cơ sở đó, ông phân chia 
động từ tiếng Việt thành hai nhóm lớn: 
Động từ đa phương là các động từ có khả 
năng kết hợp với từ hai đến sáu hư từ nói trên, 
biểu thị những hoạt động có thể tiến hành theo 
bất kỳ phương hướng nào, chúng có thể biểu 
thị những động tác cơ bản của người hay vật 
nói chung, ví dụ nhìn ra/vào/lên/xuống/đi/lại; 
chạy ra/vào/lên/xuống/đi/lại… 
Động từ đơn phương là các động từ chỉ 
kết hợp với một phó từ phương hướng nhất 
định như cởi ra, chụm vào, nâng lên, dìm 
xuống… Khả năng kết hợp với phó từ nào là 
do ý nghĩa từ vựng của động từ quyết định. 
Do đó, các hư từ ra, vào, lên, xuống, đi, lại 
khi kết hợp với động từ chính là tiêu chí tạo 
nên các nhóm động từ trong tiếng Việt. 
Diệp Quang Ban có cùng quan điểm với 
Nguyễn Kim Thản về động từ chỉ hướng, ông 
nhận định “chúng là những động từ tự bản 
thân chỉ sự vận động có hướng xác định 
không cần động từ thực khác đứng trước,… 
và có thể làm vị tố trong câu” [23:500]. 
Nhưng các từ chỉ hướng không chỉ là động từ. 
Khi kết hợp với động từ hoặc tính từ, thậm chí 
cả danh từ, các từ chỉ hướng có chức năng chỉ 
nghĩa thuần túy và có thể rất trừu tượng, có 
khi tạo ra sự vận động, có khi không chỉ ra sự 
vận động hay rất xa với sự vận động. Ông đã 
phân chia động từ đứng trước từ chỉ hướng 
làm ba loại: 
Động từ di chuyển gồm: (a) Sau từ chỉ 
hướng không có từ chỉ đích như chạy ra, đem 
vào, đi vào, đưa lên, bỏ xuống, mở ra, đóng 
lại; và (b) sau từ chỉ hướng có từ chỉ đích như 
chạy ra sân, đem vào nhà, đưa lên gác, bỏ 
xuống hầm… 
Động từ chỉ tư thế: khi đứng trước từ chỉ 
hướng được tăng thêm tính động, như đứng 
lên, ngồi xuống, ngồi dậy, cầm lên… 
 Động từ chỉ hoạt động vật chất hoặc tinh 
thần… Theo ông, các từ chỉ hướng đem lại 
cho động từ chỉ hoạt động vật chất ý nghĩa về 
hướng phát triển hoặc suy thoái của sự vật 
hoặc kết quả, các hướng này có thể tích cực 
hoặc tiêu cực, ví dụ nở ra, (mặt) sị xuống, co 
lại... Trong khi đó, các từ chỉ hướng đem lại 
cho động từ chỉ hoạt động tinh thần ý nghĩa về 
kết quả như nhận ra, nhớ ra, quên đi… 
Tác giả Đinh Văn Đức cũng đã quan tâm 
đến nhóm từ chỉ hướng. Ông quan niệm đó là 
“những yếu tố ngữ pháp đa chức năng”, bởi 
ngoài chức năng của động từ, chúng còn có 
thể xuất hiện trong các vị trí sau: 
Trong cấu trúc động ngữ với tính cách là 
từ phụ chỉ hướng (bước ra, chui ra), hoặc chỉ 
kết quả (tìm ra, nhận ra, nghĩ ra) làm thành tố 
phụ cho trung tâm. 
Sau động từ và trước một danh từ có 
quan hệ với động từ đó (bước vào lớp, cài vào 
áo, bám vào cây); quan hệ này đã được đề 
xuất gọi là quan hệ giới ngữ. 
Sau một động từ đã có thành tố phụ với 
chức năng bổ ngữ, ví dụ treo cái áo vào tủ; 
đặt cuốn sách lên bàn. Theo tác giả, trong các 
trường hợp này, các từ vào và lên không còn 
thuần túy là từ phụ của động từ nữa, mà có 
chức năng khá gần với chức năng của giới từ 
truyền thống – chức năng của một từ nối. 
Tác giả Nguyễn Thị Quy cũng dành sự 
chú ý đặc biệt cho các vị từ chỉ hướng lên, 
xuống, ra, vào, đi, lại. Theo tác giả, các vị từ 
chỉ hướng đi kèm theo sau các vị từ với tư 
cách trạng ngữ, nhưng với mỗi loại vị từ, các 
trạng ngữ này lại có những ý nghĩa khác nhau 
rõ rệt. Khi kết hợp với các động từ, các trạng 
ngữ chỉ hướng có những ý nghĩa sau: 
Ý nghĩa chỉ hướng hoặc mục đích cho 
các vị từ chỉ sự chuyển động như chạy, bay, 
bước, bò… và các vị từ chỉ hành động như 
đẩy, dắt, ném, phun, rót… 
Ý nghĩa thể: chỉ những hành động nhằm 
đạt đến hiệu quả như tìm (kiếm, chạy, nghĩ, 
nghiên cứu, chế tạo) ra 
 ý nghĩa hướng + kết quả: moi ra sạn 
 ý nghĩa “bắt đầu”: cháy/bùng/bốc; 
ca/hát/kêu lên 
Hai nhóm ý nghĩa của các vị từ chỉ 
hướng được tác giả nhấn mạnh là (a) chuyển 
một tư thế tĩnh thành một động tác (động), 
như đứng lên, ngồi xuống, và (b) chuyển từ 
một trạng thái hay tính chất tĩnh thành một 
quá trình tăng mức độ động, trong đó lên và 
ra chỉ sự “tích cực” còn lại và đi dùng để chỉ 
sự “tiêu cực” trong quá trình đó… 
Như vậy, trong lĩnh vực Việt ngữ, do đặc 
trưng của ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu đã 
quan tâm đến cái mà chúng tôi gọi là ĐTTN 
trong tiếng Anh theo một cách tiếp cận rất 
riêng: đặt trong khuôn khổ nghiên cứu về 
nhóm từ chỉ hướng. Quan điểm của các tác giả 
có sự trùng lặp, nhưng việc dùng thuật ngữ 
cũng không thực sự thuần nhất. Trong khi 
Nguyễn Kim Thản gọi vào/ra, lên/xuống, 
đi/lại sau động từ là các “hư từ”, thì Diệp 
Quang Ban xếp chúng vào nhóm từ chỉ 
hướng; Đinh Văn Đức quan niệm đó là các 
“phụ từ chỉ hướng” hoặc một cái gì đó tương 
đương với “giới từ truyền thống” – từ nối. 
Còn Nguyễn Thị Quy thì lại gọi chúng là các 
“vị từ chỉ hướng.” 
II. KẾT LUẬN 
Động từ với tư cách là một từ loại đóng vai 
trò làm thành tố chính trong câu đã được 
nghiên cứu nhiều trong cả hai ngôn ngữ Anh 
và Việt. Dù đã được nghiên cứu khá nhiều, 
ĐTTN tiếng Anh là một vấn đề rất phức tạp 
và khó tiếp cận ngay cả đối với người bản 
ngữ. Kết hợp của động từ với từ chỉ hướng 
trong tiếng Việt (một hiện tượng tương đương 
của ĐTTN tiếng Anh) cũng đã xác định được 
vị trí trong Việt ngữ học. Trên cơ sở các quan 
điểm đó, bước đầu có thể rút ra một số luận 
điểm quan trọng như sau: 
- Trong hai ngôn ngữ Anh và Việt, động 
từ đều có thể kết hợp với tiểu từ để tạo ra các 
kết hợp cố định mới với các nghĩa mới (hay 
các dạng phức hợp của động từ); 
- Trong cả hai ngôn ngữ, các tiểu từ trong 
các kết hợp mới phần lớn thuộc nhóm từ chỉ 
hướng như ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, 
lại, tới, đến; 
- Về mặt ý nghĩa, trong cả hai ngôn ngữ 
kết hợp mới giữa động từ với tiểu từ có thể 
mang nghĩa gốc (nghĩa đen) hay nghĩa chuyển 
(nghĩa bóng) của các từ thành tố; 
- Tính đa nghĩa là một trong các đặc 
trưng của ĐTTN trong cả hai ngôn ngữ... 
Chính vì vậy việc nghiên cứu các đặc 
trưng của ĐTTN tiếng Anh trong sự đối chiếu 
với tiếng Việt là một việc làm có ý nghĩa thiết 
thực và là cơ sở quan trọng giải quyết các khó 
khăn mà ĐTTN tiếng Anh đặt ra cho người 
Việt học và sử dụng tiếng Anh. Mức độ tương 
đương của ĐTTN giữa tiếng Anh và tiếng 
Việt trên các bình diện hình thức cấu trúc, 
chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa là những 
gợi mở hết sức lý thú và thiết thực cần được 
đầu tư nghiên cứu. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Beaumont, Digby & Granger, Collin. The 
Heinemann English Grammar. Bath Press. Avon 1992. 
[2]. Chafe, Wallace L. Ý nghĩa và cấu trúc của 
ngôn ngữ. NXB Giáo dục 1998. 
[3]. Fernando, Chitra. Idioms and Idiomacity. 
Oxford University Press 1977. 
[4]. Flower, John. Phrasal Verb Organiser. NXB 
Thành phố Hồ Chí Minh 2000. 
[5]. Halliday, Mak. Dẫn luận ngữ pháp chức năng. 
NXB ĐHQG Hà Nội 2001. 
[6]. Halliday, Mark & Hasan, Ruquaiya. Cohesion 
in English. Longman 1997. 
[7]. Hart, Carl W. The Ultimate Phrasal Verb 
book. Barrons 1999. 
[8]. Huddleston, Rodney. Introduction to the Grammar 
of English. Cambridge University Press 1994. 
[9]. Larson, Mildred L. Meaning – based 
translation: A guide to Cross-Language 
Equivalence. University Press of America 1984. 
[10]. Leech, Geoffrey. An A – Z of English 
Grammar & Usage. Nelson 1998. 
[11]. McCarthy, Michael & O’Dell, Felicity. 
English Phrasal Verbs in Use, NXB trẻ. (Lê Ngọc 
Phương Anh giới thiệu và chú giải) 2004. 
[12]. Nattinger, James R. & DeCarrico, Jeabette 
S. Lexical phrases and Language teaching. Oxford 
University Press 1977. 
[13]. Quirk, Randolph & Greenbaum, Sidney. A 
University Grammar of English. Longman 1976. 
[14]. Quirk, Randolph & Greenbaum, Sidney…A 
grammar of contemporary English, Longman 1972. 
[15]. Taylor, John. Cognitive Grammar. Oxford 
University Press 2002. 
[16]. Swan. Practical English Usage. Oxford 
University Press 1997 
[17]. Diệp Quang Ban. Ngữ Pháp tiếng Việt, NXB 
GD 2005 
[18]. Đinh Văn Đức. Ngữ pháp tiếng Việt – Từ 
loại. ĐHQG HN 2001 
[19]. Đỗ Hữu Châu. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. 
NXB Giáo dục 1999 
[20]. Đỗ Hữu Châu. Các bình diện của từ và từ 
tiếng Việt. NXB ĐHQG Hà Nội 1999. 
[21]. Hoàng Văn Vân. Nghiên cứu dịch thuât. 
NXB KHXH 2005. 
[22]. Nguyễn Kim Thản. Động từ trong tiếng Việt. 
NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1997. 
[23]. Nguyễn Thị Quy. Vị từ hành động tiếng Việt 
và các tham tố của nó. NXB KH & XH 1995. 
[24]. Nguyễn Thiện Giáp. Những lĩnh vực ứng 
dụng của Việt ngữ học. NXB ĐHQG Hà Nội 2006. 
[25]. Trần Hữu Mạnh. Ngôn ngữ học đối chiếu cú pháp 
tiếng Anh – tiếng Việt. NXB ĐHQG Hà Nội 2007. 
[26]. Xuân Bá. Cụm động từ tiếng Anh. NXB 
ĐHSP 2005♦ 

File đính kèm:

  • pdf08_2010_1196_dt_thanh_ngu_7469.pdf
Tài liệu liên quan