Điều chỉnh chủ đề nghe giúp cải thiện hứng thú học kỹ năng nghe của sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng anh, trường đại học Hùng Vương
Bài báo là báo cáo của một nghiên cứu hành động được thực hiện tại khoa Ngoại ngữ, Trường Đại
học Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ) với sự tham gia của 54 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành
tiếng Anh. Theo Sass (1989), hứng thú học tập là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người học,
thậm chí hứng thú học còn quan trọng hơn cả kết quả học tập. Trong khuôn khổ bài báo này, tác
giả tập trung đưa ra những phân tích về hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất ở giai đoạn
trước và sau khi áp dụng một số điều chỉnh trong chương trình. Từ đó, bài báo sẽ phân tích và thảo
luận về những thay đổi tích cực trong hứng thú học tập của người học.
iờ học ở mức độ tích cực chỉ là 38.9%, trong khi số sinh viên không đóng góp ý kiến hoặc ít khi đóng góp ý kiến lên tới 39%. Chỉ có 37.5% sinh viên được quan sát thấy là có hứng thú với bài học; chỉ có 30% sinh viên thường xuyên đưa ra câu hỏi về nội dung bài học, số còn lại được quan sát thấy là không bao giờ hoặc rất ít khi đưa ra câu hỏi. Có lẽ, sinh viên không mấy hứng thú hoặc chưa thích học kỹ năng nghe là một trong những lí do tỉ lệ chuyên cần đến lớp của họ cũng không cao. Có tới 37.3% (tương ứng với 20 sinh viên) thường xuyên vắng mặt hoặc đi học muộn. Con số này là khá cao đối với một lớp học chính quy. Ở tiêu chí 7, chỉ có 33.5% sinh viên chăm chú lắng nghe bài giảng và cố gắng hoàn thiện các nhiệm vụ nghe mà giáo viên yêu cầu. Qua phân tích số liệu thu được ở hai tuần đầu khóa học, có thể thấy sinh viên chưa hào hứng với các hoạt động nghe, thậm chí là trong 02 tuần đầu tiên họ cũng chưa hứng thú với việc thay đổi chủ đề bài học, mặc dù trong thời gian này bài số 3 đã được thay đổi chủ đề. 27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Cho đến những tuần cuối của học phần, hứng thú học kỹ năng nghe đã có sự chuyển biến tích cực. Bảng số liệu sau đây sẽ chỉ ra sự thay đổi này. Bảng 2: Dữ liệu từ việc quan sát lớp học trong 2 tuần cuối cùng của học phần (03 là mức độ trung bình cho tất cả các tiêu chí) 1 2 3 4 5 1. Sinh viên tham gia đóng góp ý kiến với bài học (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 7.4% 13.0% 29.6% 20.4% 29.6% 2. Đánh giá mức độ tập trung của sinh viên đối với bài học (1 Không chút nào – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Khá tập trung – 5 rất tập trung) 3.7% 5.6% 11.1% 33.3% 43.7% 3. Sinh viên thích các hoạt động nghe (1 Ghét – 2 Không rõ – 3 Bình thường – 4 Thích – 5 Rất thích) 3.7% 3.7% 13.0% 48.1% 31.5% 4. Đánh giá mức độ tham gia hoạt động của sinh viên (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 1.9% 13.1% 20.4% 47.5% 20.4% 5. Sinh viên nêu thắc mắc của mình để giáo viên/bạn học giải đáp (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 1.9% 7.4% 29.6% 37.0% 24.1% 6. Sinh viên đến lớp chuyên cần, đúng giờ (1 Không bao giờ – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất đúng giờ) 70% 10.0% 30.0% 40.0% 19.6% 7. Sinh viên chăm chú nghe và cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ nghe (1 Không – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 3.7% 7.4% 16.7% 27.8% 44.4% Số liệu ở bảng 2 cho thấy, số sinh viên hứng thú các hoạt động nghe đã tăng đáng kể so với 2 tuần đầu của kỳ học. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, 51% sinh viên tham gia vào các hoạt động nghe một cách tích cực. Hầu hết sinh viên (79.6%) thấy khá hứng thú và rất thích thú với các hoạt động nghe. Điều này là một sự tiến bộ đáng kể so với thời gian đầu học phần. Số lượng sinh viên tập trung trong giờ học nghe đã lên 43.7% (so với 22% ở 2 tuần đầu tiên). Số lượng sinh viên tham gia chủ động, tích cực hơn trong giờ học cũng gia tăng đáng kể (67.9% so với 31.4% ở đầu khóa học). Khá nhiều sinh viên (67.9%) tham gia vào các hoạt động nghe một cách thường xuyên và rất tích cực. 37% sinh viên thường xuyên đưa ra các ý kiến trong bài học trong khi đó có 24.1% rất tích cực đóng góp ý kiến. Số sinh viên đi học đúng giờ cũng tăng lên 59.6% so với 32.9% ở đầu học kỳ. Khi giảng viên đưa ra các yêu cầu trong giờ học, có 27.8% sinh viên thường xuyên cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ nghe và 44.4% sinh viên rất tích cực nghe để hoàn thành các nhiệm vụ nghe. Trong khi đó, các con số tương ứng đối với tiêu chí này ở 2 tuần đầu của khóa học chỉ là 27.8% và 5.7%. Điều này thể hiện rằng, hứng thú học của sinh viên đã tăng lên trong suốt khóa học. 28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 2.2.2. Kết quả thu được từ bảng hỏi điều tra So sánh kết quả thu được từ bảng hỏi điều tra trước thực nghiệm và sau thực nghiệm: Sinh viên tự đánh giá về hứng thú học kỹ năng nghe của bản thân (Biểu đồ 1 và 2) Trước khi thực nghiệm, khi được hỏi “ Em có thích học kỹ năng nghe không?”, một số lượng rất lớn (60%) sinh viên thú nhận rằng, họ không thích học kỹ năng này. Con số này gần gấp 3 lần con số sinh viên cảm thấy hứng thú học nghe. Thêm vào đó, 15% sinh viên ngần ngại trong việc đưa ra câu trả lời về việc mình có hứng thú học nghe hay không. Nhìn chung, khảo sát trước thực nghiệm cho thấy, có ít sinh viên cảm thấy hứng thú học kỹ năng nghe. Sau khi áp dụng những thay đổi trong học phần nghe 2, số lượng sinh viên hứng thú với kỹ năng này đã tăng lên đáng kể (từ 25% lên tới 48%) trong khi đó số lượng sinh viên không thấy hứng thú đã giảm xuống còn 39%. Sinh viên đánh giá về sự phù hợp giữa nội dung của bài học đối với sở thích của họ Đầu khóa học, gần một nửa sinh viên (40%) thấy những chủ đề của khóa học không phù hợp với sở thích của họ. Khoảng 1/3 số sinh viên cho rằng, những chủ đề của học phần nghe 1 là phù hợp với sở thích của mình và 31% sinh viên không đưa ra ý kiến gì cho câu hỏi này. (Biểu đồ 3 và 4) 29KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Cuối khóa học, số sinh viên thấy nội dung bài học phù hợp hơn với sở thích của bản thân đã tăng lên 48% và số sinh viên thấy bài học không phù hợp giảm xuống chỉ còn 22%. Những con số này thực sự khích lệ nhóm nghiên cứu tin tưởng vào những điều chỉnh trong chương trình về nội dung bài học và thời lượng dành cho kỹ năng nghe. Thời gian để học và luyện tập kỹ năng nghe mỗi ngày Số liệu thu thập được từ câu hỏi này chỉ ra rằng, ở đầu khóa học đa số sinh viên (60%) chỉ dành ít hơn 1 giờ mỗi ngày để luyện tập kỹ năng nghe. Đây là một trong những lí do tại sao khả năng nghe của họ rất kém. Chỉ 10% số sinh viên dành hơn 2 giờ để học kỹ năng này. (Biểu đồ 7 và 8) Số lượng sinh viên dành 1-2 giờ/ngày để học và luyện tập kỹ năng nghe đã tăng gấp đôi từ 30% lên tới 63%, trong khi số lượng sinh viên dành ít hơn 1 giờ mỗi ngày để học kỹ năng này giảm xuống đáng kể từ 60% còn 25%. Rõ ràng là, khi sinh viên nhận thấy môn học thú vị hơn, họ sẽ dành thêm thời gian và công sức để đầu tư cho nó. Mong muốn cải thiện kỹ năng nghe của bản thân: 30 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Số liệu ở đầu khóa học cho thấy, hầu hết sinh viên (56%) có chung mong muốn được học tốt kỹ năng này và chỉ 27% không mấy quan tâm tới vấn đề này. Con số này cho thấy, mong muốn được cải thiện khả năng nghe không tương ứng với hứng thú học của sinh viên, vì 56% mong muốn cải thiện khả năng nghe không bao gồm 25% ít hứng thú học. (Biểu đồ 9 và 10) Mong muốn được cải thiện kỹ năng nghe của sinh viên đã có sự thay đổi: 56% sinh viên trước thực nghiệm cho rằng họ muốn học kỹ năng này và sau thực nghiệm con số này là 62%. Trong khi đó, số sinh viên không thích học kỹ năng này giảm từ 27% xuống còn 23%. Con số này không thay đổi nhiều lắm nhưng nó cũng phần nào thể hiện rằng, có lẽ động lực học tập của sinh viên đã thay đổi theo hướng tích cực. 3. KẾT LUẬN Số liệu thu thập được từ việc quan sát lớp học và phiếu điều tra giúp nhóm nghiên cứu đưa ra một số nhận định sau đây: - Sinh viên đã chú ý và tham gia nhiệt tình hơn trong giờ hoc kỹ năng nghe. - Việc luyện tập của sinh viên trở nên có mục đích hơn. - Sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc luyện tập thường xuyên. - Sinh viên hứng thú với những điều chỉnh trong chủ đề nghe. Tóm tại, qua việc phân tích số liệu và thông tin thu thập được, nhóm nghiên cứu nhận thấy những nỗ lực nhằm nâng cao hứng thú học nghe của sinh viên phần nào đã có hiệu quả. Về mặt thái độ học tập, cả trên lớp và sau giờ học, những số liệu từ quan sát lớp học và bảng hỏi cho thấy việc học tập của sinh viên dần trở nên tập trung hơn; sinh viên nỗ lực hơn trong việc học, kiên nhẫn hơn với bản thân và chăm chỉ hơn. Những số liệu nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh viên đã thích thú với những bài học hơn. Đây thực sự là một thành công đáng ghi nhận của nhóm nghiên cứu vì trong giáo dục hứng thú học tập nhiều khi còn quan trọng hơn kết quả học tập (Naiman et al,1991)./. Tài liệu tham khảo: 1. David Nunan (2011), Listen in 3, Lao Dong Publishing House, Hanoi. 2. David Nunan (1994), Syllabus Design, Oxford University Press: Oxford. 3. Dornyei, Z. (2001), Teaching and researching motivation, London: Longman 4. Naiman et al. (1991), The good language learners, Ontario Institute for Studies in Education: Toronto. 5. Sass, E. J. (1989), “Motivation in the college classroom: What students tell us”, Teaching of Psychology, 16(2). 6. William Arthur Ward (1970), Fountains of Faith: the Words of William Arthur Ward, Droke House: United States. 31KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v ADJUSTING LISTENING TOPICS TO IMPROVE THE MOTIVATION OF THE FIRST- YEAR ENGLISH-MAJORED STUDENTS TO LISTENING SKILLS AT HUNG VUONG UNIVERSITY NGO THI THANH HUYEN NGUYEN THI NGOC THUY Abstract: This is the report of an action research which has recently been conducted on 54 first-year English students of Foreign Language Department at Hung Vuong University (Phu Tho province). Motivation is very important to the learners, and to some extent, even more important than their study results (Sass, 1989). In this report, an analysis on the motivation of the first-year students before and after the application of the adjustments in listening topics is focused on. Accordingly, findings and discussion on positive changes in the students’ motivation are explained. Based on the analyses and discussions, some suggested solutions that can help improve the student’s motivation in learning listening skills are finally given. Keywords: motivation, listening skills, action research. Received: 18/5/2017; Revised: 07/7/2017; Accepted for publication: 30/8/2017
File đính kèm:
- 88_312_2137273.pdf